Đảng
cầm quyền trước hết là Đảng có quyền lực trên thực tế. Quyền lực đó thể hiện
trực tiếp ở vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, với các tổ chức, đoàn
thể trong hệ thống chính trị và đối với
toàn xã hội. Vai trò lãnh đạo của Đảng được thể
chế hóa thành luật và được ghi vào Hiến pháp, bộ luật cơ bản, cao nhất của
nhà nước, được nhà nước và xã hội thừa nhận.
Đảng
cầm quyền có nghĩa là Đảng hoạt động công khai, hợp pháp. Địa vị pháp lý của
Đảng được khẳng định, được pháp luật bảo vệ. Cán bộ, đảng viên của Đảng không
chỉ làm việc trong các cơ quan Đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội mà một
phần lớn còn làm việc trong các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, văn hóa,
khoa học, giáo dục. Cán bộ đảng viên của Đảng cầm quyền đồng thời là công chức
nhà nước, không ít người có chức có quyền. Đó cũng là một hiện tượng bình
thường. Vấn đề là ở chỗ, làm thế nào để họ không rơi vào thoái hóa, biến chất,
nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, làm tổn hại tới uy tín,
thanh danh của Đảng trước xã hội, làm suy giảm lòng tin của dân đối với Đảng và
Nhà nước do Đảng lãnh đạo.
Đảng
cầm quyền đã tạo cho Đảng rất nhiều thuận lợi về vật chất và tinh thần để đường
lối, quan điểm, nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống thông qua những thể chế
hóa của nhà nước và những hoạt động tuyên truyền, giáo dục trong xã hội.
Song
mặt khác, khi đã ở vào vị thế cầm quyền, Đảng đứng trước hàng loạt nguy cơ,
thách thức cần phải vượt qua.
Những
nguy cơ, thách thức đó biểu hiện chủ yếu ở hai mặt: Thứ nhất, trách nhiệm của Đảng là to lớn và nặng nề đối với sự phát
triển của xã hội và cuộc sống của nhân dân. Là lực lượng lãnh đạo, Đảng là
người chịu trách nhiệm cao nhất về mọi lĩnh vực của đời sống. Liệu Đảng có đủ
năng lực, kiến thức, phương pháp, kinh nghiệm và bản lĩnh, tức là trình độ của
Đảng và tư cách đảng viên để thực thi chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng
không trước bước ngoặt cầm quyền. Nguy cơ, thách thức này chính là những khó
khăn, những đòi hỏi đối với Đảng trước tình hình, nhiệm vụ mới mà không ít lần,
trong các văn kiện chính thức và công khai, Đảng đã tự đánh giá là
"chưa ngang tầm với nhiệm vụ mới", là "chậm đổi mới khi tình
hình, nhiệm vụ mới đã xuất hiện".
Thứ hai, khi đã cầm quyền, đã có quyền lực liệu quyền
lực đó có được sử dụng đúng đắn, đúng mức không? Liệu có rơi vào tình trạng
quyền lực bị tha hóa hay không? Cán bộ đảng viên của Đảng có đủ phẩm chất đạo
đức và bản lĩnh để vượt qua những cám dỗ tầm thường vật chất trong vòng danh
lợi không? Căn bệnh phổ biến và nan giải của mọi nhà nước là quan liêu và tham
nhũng liệu có tập nhiễm vào Đảng không, hơn nữa Đảng phải chịu trách nhiệm về
mình như thế nào về những chứng bệnh và hậu quả ấy khi Đảng cầm quyền, lãnh đạo
nhà nước và xã hội? Nguy cơ, thách thức này chính là sự thoái hóa, biến chất
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, là tình huống đạo đức, lối sống
trong Đảng khi Đảng cầm quyền, nó có quan hệ mật thiết với dân chúng và xã hội,
xét từ tâm trạng, dư luận, thái độ đánh giá và cả những phản ứng, những sự phê
phán từ dân, từ quần chúng ngoài đảng đối với Đảng và cán bộ đảng viên.
Từ
những nguy cơ thách thức nêu trên, có thể thấy, việc giữ gìn và phát huy bản
chất của Đảng Cộng sản trong điều kiện
Đảng cầm quyền là không đơn giản một chút nào.
Lời
cảnh báo được đưa ra từ rất sớm, nhất là từ Lênin và Hồ Chí Minh. Ban lãnh đạo
cấp cao của Đảng cũng đã từng nhận thấy những nguy cơ đó và đã không ít lần đưa
ra những nhận định, đánh giá mang tinh thần phê phán và tự phê phán nghiêm khắc
trong các văn kiện Đại hội, trong các nghị quyết Trung ương của Đảng. Trong
thời kỳ đổi mới, Đảng đã có những nghị quyết, chỉ thị đặc biệt quan trọng về
xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Nhưng sự chuyển biến của tình hình trong Đảng đã
không đạt được như yêu cầu đòi hỏi của Đảng và sự mong mỏi của quần chúng nhân
dân. Hầu như không có một Đảng Cộng sản cầm quyền nào, kể cả Đảng ta có được
khả năng miễn dịch trước những sự thoái hóa, biến chất, những cái xấu, những sự
hư hỏng hoàn toàn xa lạ với bản chất cộng sản của Đảng. Tình hình là phổ biến trong các Đảng Cộng sản cầm
quyền của hệ thống XHCN. Mức độ là nghiêm
trọng và tổn hại là rất nặng nề
với sự đổ vỡ chế độ XHCN, tan rã Đảng và Nhà nước ở Liên Xô và Đông Âu. Cần
phải rút ra từ những bài học phản diện đó những vấn đề cần thiết để xây dựng
Đảng Cộng sản cầm quyền trong sạch vững mạnh ở nước ta. Không phải không có lý
do mà lúc sinh thời Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh "chỉnh đảng là việc phải làm
ngay" và trong "Di chúc", Người đã viết: ... "Trước hết nói
về Đảng".
Tình
huống phức tạp nêu trên bao gồm cả quan niệm, nhận thức lý luận đến hệ thống
thiết chế bộ máy, thể chế Đảng, nội dung phương thức lãnh đạo của Đảng, đặc
biệt là sự phân định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Đảng để phân biệt và
xác lập mối quan hệ tương ứng với Nhà nước. Những vấn đề đó lại không tách rời
với công tác tổ chức và cán bộ, công tác tư tưởng, giáo dục và kiểm tra của
Đảng. Đó là cả một hệ vấn đề liên quan đến đời sống chính trị và hoạt động lãnh
đạo của Đảng, ảnh hưởng trực tiếp tới nhà nước và xã hội mà trong một thời gian
dài chậm được phát hiện, chậm được xử lý giải quyết và khi giải quyết lại không
có những giải pháp đủ mạnh và đồng bộ nhằm cải thiện tình hình về căn bản.
Dưới
đây chúng ta xem xét những vấn đề đó, chủ yếu là những vấn đề mà thực tiễn đã
bộc lộ khá đầy đủ cho phép có thể nhận xét, đánh giá và đưa ra những đề nghị,
khuyến nghị cụ thể.
Một là, quyền lực Đảng khác với quyền lực Nhà
nước. Lãnh đạo Đảng khác với quản lý nhà nước. Những điểm khác biệt rất căn bản này sẽ quy
định những điểm khác biệt khác về chức năng, nhiệm vụ, phương thức và phương
pháp hoạt động giữa Đảng và Nhà nước, giữa Đảng với các tổ chức, đoàn thể chính
trị - xã hội khác. Do những điểm phân biệt đó không đủ rõ ràng, thấu đáo, không
chuyển mạnh từ đổi mới nhận thức sang đổi mới tổ chức và hoạt động nên tình
trạng đã xảy ra là "Nhà nước hóa Đảng" và "hình thức hóa Nhà
nước" làm cho Đảng trở nên hành chính hóa, quan liêu hóa kiểu nhà nước và
Nhà nước thì không có thực quyền, vừa thụ động vừa trì trệ, sơ cứng trong quản
lý. Bộ máy Đảng và Nhà nước đông mà không mạnh.
Quyền
lực của Đảng cần được hiểu cho đúng, đó là quyền
lực chính trị. Đảng là lực lượng lãnh đạo xã hội, quyết định những vấn đề
về lựa chọn con đường phát triển của xã hội, về chế độ chính trị, mục tiêu
chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, đưa ra những định hướng lớn về quan
điểm, nguyên tắc xây dựng đất nước tiến lên CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Hệ tư
tưởng của Đảng thông qua lãnh đạo, tuyên
truyền và giáo dục của Đảng trở thành ý thức chung của toàn xã hội.
Đó
là quyền lực của Đảng đối với xã hội. Còn đối với Nhà nước, Đảng lãnh đạo nhà
nước bằng đường lối, nghị quyết, bằng công tác tổ chức cán bộ và kiểm tra việc
Nhà nước thực hiện chấp hành đường lối, nghị quyết như thế nào, thông qua tổ
chức Đảng trong các cơ quan nhà nước và thông qua các cơ quan chuyên trách của
hệ thống Đảng.
Trong
nội bộ của Đảng, quyền lực của Đảng được thể hiện trực tiếp và nổi bật nhất với
sức mạnh của tổ chức, của nguyên tắc tổ chức, của điều lệ mà toàn đảng và từng
đảng viên phải chấp hành như là bộ luật của Đảng.
Nhà
nước là hệ thống tổ chức quyền lực thực hiện sự ủy quyền của nhân dân, bao
nhiêu lợi ích là của dân, bao nhiêu quyền lực cũng thuộc về dân, quyền hành và
lực lượng đều ở trong dân. Quyền lực nhà nước là nhằm thực hiện và bảo vệ quyền
lực của nhân dân lao động.
Đảng
thực thi vai trò lãnh đạo, chức năng và nhiệm vụ lãnh đạo, xét đến cùng cũng là
để đảm bảo thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hồ Chí Minh đã
từng nói: Đảng là người lãnh đạo đồng thời là người đầy tớ trung thành của nhân
dân. Dân là cơ sở xã hội của Đảng và nhà nước, là điểm xuất phát và mục tiêu
hoạt động của Đảng và nhà nước. Đảng cũng như nhà nước chỉ có một mục đích, một
lý do duy nhất tồn tại là vì cuộc sống, quyền tự do và hạnh phúc của nhân dân.
Nhà
nước được tổ chức để thực hiện quyền lực chung, quyền lực công cộng nên chức
năng công quyền của nó phải được tôn trọng. Pháp luật thể hiện ý chí và quyền
lực nhân dân là đảm bảo đầy đủ quyền uy cho nhà nước. Do đó, tuy lãnh đạo Nhà
nước nhưng Đảng không can thiệp vào hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước
với tất cả những đặc thù của quản lý. Đảng cũng không thể lấn sân, bao biện,
làm thay những công việc của chính quyền các cấp trong hệ thống quản lý hành
chính từ Trung ương tới cơ sở. Đảng là
lực lượng lãnh đạo chính trị, quyết định những vấn đề chính trị thuộc về
chiến lược phát triển, về đường lối, chủ trương, quan điểm, nguyên tắc đối với
tổ chức và hoạt động của nhà nước nhưng nhà
nước lại là tổ chức quyền lực, thực thi vai trò, chức năng quản lý mọi mặt
đời sống trong xã hội bằng pháp luật.
Đã có nhà nước và pháp luật thì mọi công dân, mọi tổ chức trong xã hội đều phải
tuân thủ, đều chịu sự kiểm soát, điều chỉnh của luật pháp. Để quản lý, nhà nước
buộc phải dùng đến sức mạnh của tổ chức và hành chính cũng như sức mạnh cưỡng
chế của luật pháp. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Các tổ chức Đảng
và đảng viên chẳng những phải tuân thủ luật pháp mà còn phải gương mẫu chấp
hành luật pháp để nêu gương cho xã hội và các công dân ngoài đảng.
Nhà
nước đang được xây dựng theo đúng các chuẩn mực để trở thành nhà nước pháp
quyền. Nhà nước tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng đồng thời Đảng hoạt động và thực
hiện sự lãnh đạo phù hợp với tinh thần pháp luật, trong khuôn khổ của luật
pháp, không trái với luật pháp, không đứng trên Nhà nước, xã hội công dân và
luật pháp. Tính hợp hiến, hợp pháp là căn cứ pháp lý chung cho hoạt động, hành
vi của mọi tổ chức và cá nhân trong điều kiện của Nhà nước pháp quyền.
Đề
cao pháp luật, tự giác nhận thức và hành động theo những chế định và giới hạn pháp luật, điều đó chẳng những không hạ
thấp và làm suy giảm vai trò lãnh đạo của Đảng mà trái lại, còn làm tăng thêm
sức mạnh bảo vệ và tự bảo vệ của Đảng, tránh cho Đảng rơi vào tình trạng độc
đoán, chuyên quyền, lạm quyền, vi phạm pháp luật và dân chủ. Một khi pháp luật
được đặt vào vị trí tối thượng và có sức
mạnh thực tế chứ không chỉ trên danh nghĩa thì nhà nước mới chứng tỏ được
hiệu lực và quyền uy của mình, mới đủ sức thực hiện và bảo vệ quyền của các
công dân. Đó là nhà nước mạnh và thực quyền. Đảng lãnh đạo nhà nước thì thước
đo hiệu quả lãnh đạo đó phải được thể hiện ở sức mạnh, tác dụng của nhà nước.
Sẽ không thể có một Đảng mạnh mẽ, to lớn, chắc chắn như Hồ Chí Minh nói nếu nhà
nước yếu kém, hình thức, quan liêu, tham nhũng, luật pháp nhu nhược, các cơ
quan thi hành và bảo vệ luật pháp lại không được củng cố, tăng cường, không đảm
bảo được sự trong sạch, nghiêm minh của nó.
Lênin
và Hồ Chí Minh đã từng nói, nếu đảng viên và người ngoài đảng vi phạm pháp luật,
có hành vi phạm tội như nhau thì đảng viên phải được xử lý nghiêm khắc hơn gấp
nhiều lần. Đảng ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã khẳng định: pháp luật phải
nghiêm trị mọi hành vi phạm pháp, bất kể họ là ai, họ làm gì và ở cương vị nào.
Quan điểm, thái độ đó là hoàn toàn rõ ràng, đúng đắn, được lòng dân.
Đó
là những điểm căn bản phân biệt Đảng với Nhà nước, lãnh đạo với quản lý, quyền
lực chính trị của Đảng và quyền uy pháp luật của Nhà nước. Những sự phân biệt
và phân định thẩm quyền, chức năng,
nhiệm vụ này đều dựa trên nền tảng dân
chủ, đều xuất phát từ dân, đều nhằm mục đích phục vụ dân, bảo vệ dân và phát
triển sức dân đi liền với tiết kiệm sức dân (Hồ Chí Minh) để mưu cầu độc
lập - tự do - hạnh phúc cho toàn thể nhân dân lao động. Như vậy, Đảng lãnh đạo
và nhà nước quản lý đều biểu hiện ra trong đời sống xã hội như những chủ thể
thực hiện sự ủy quyền của dân và dân là chủ thể gốc của mọi quyền lực. Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý để nhân dân làm chủ.
Hạn
chế lớn nhất từ trước tới nay là hệ thống tổ chức, thể chế và cơ chế thực hiện,
bảo vệ quyền lực của nhân dân, những quy định về các biện pháp kèm theo các
điều kiện và các chế tài để kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyền lực nhân
dân không rõ ràng, rành mạch nên trong quá trình thực hiện thường xảy ra sự lẫn
lộn, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền.
Trong
những hạn chế đó, đáng phải lưu ý nhiều nhất là chế độ trách nhiệm của tổ chức và cá nhân hoặc thiếu vắng, hoặc bị xem
nhẹ, bị suy yếu nghiêm trọng. Thói tùy tiện, vô trách nhiệm, thói lộng quyền
và lạm quyền, thói dựa dẫm, ỷ lại, thụ động, thái độ coi thường pháp luật, kỷ
luật, sự tách rời quyền và nghĩa vụ, lợi ích với trách nhiệm đã không bị lên án
mạnh mẽ về mặt đạo đức và bằng sức mạnh của dư luận xã hội cũng như không được
xử lý nghiêm minh bằng pháp luật. Đó là chưa kể đến những sự vi phạm quyền dân
chủ của dân, tình trạng dân chủ hình thức, vi phạm công bằng xã hội trong các
quan hệ lợi ích và phân phối lợi ích, trong việc bố trí, sử dụng cán bộ đã dẫn
tới những hậu quả rất tiêu cực đối với sự phát triển xã hội và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân.
Muốn
khắc phục những tồn tại, yếu kém đó trong lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nước, cần phải đề cao và thực hiện nhất quán các chuẩn mực dân chủ và pháp quyền
trong Đảng, trong nhà nước và xã hội.
Hai là, hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng phải
khác với hệ thống tổ chức bộ máy của Nhà nước để khắc phục tình trạng Nhà nước
hóa Đảng và đảm bảo cho nhà nước có thực quyền. Cả hai hệ thống này đều
đang đứng trước yêu cầu bức xúc phải cải cách, đổi mới theo yêu cầu dân chủ -
pháp quyền, trong sạch, vững mạnh, chống quan liêu tham nhũng có hiệu quả. Tổ
chức bộ máy của Đảng phải đảm bảo cho Đảng thực sự là cơ quan lãnh đạo, nhất là
các cơ quan đầu não, chiến lược. "Thà ít mà tốt", tinh thần ấy của
Lênin phải được thấm nhuần trong đổi mới Đảng và đổi mới HTCT nói chung, trước
hết trong việc sắp xếp lại tổ chức, phân định chức năng nhiệm vụ. Những luận
điểm quan trọng của Lênin về sự cần thiết tất yếu của việc thiết lập tổ chức bộ
máy xuất phát từ yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị, bộ máy phải gắn liền với
chất lượng con người và chế độ trách nhiệm, đặc biệt là trách nhiệm cá nhân cần
phải được quán triệt trong đổi mới ở lĩnh vực rất then chốt này. Ông nhấn mạnh
rằng, bộ máy phải phục vụ chính trị chứ chính trị không phục vụ bộ máy; thảo
luận thì chung, trách nhiệm thì riêng, riêng đến từng người một; mấu chốt của
công tác tổ chức trong thời kỳ cải cách là vấn đề con người, phải chọn đúng
người, giao đúng việc, kiểm tra giám sát thường xuyên, sao cho toàn bộ hoạt
động của chúng ta, trong tổ chức của chúng ta phải được đặt vào những con người
am hiểu công việc, có năng lực sáng tạo, có kiến thức và kinh nghiệm, có đầu óc
tổ chức và kỷ luật, có mối liên hệ mật thiết với quần chúng, tận tụy, trung thành,
dám chịu trách nhiệm. Những con người như thế phải được rèn luyện, thử thách và
trao cho họ những cương vị lãnh đạo, quản lý.
Do
cơ quan Đảng là cơ quan lãnh đạo chiến lược nên sự tinh gọn và tinh nhuệ, thể
hiện thật rõ tính đặc thù của lãnh đạo chính trị phải được coi trọng. Sử
dụng các chuyên gia giỏi vào công việc được chuyên môn hóa là một trong những
cách tốt nhất để giảm thiểu tình trạng thừa bộ máy mà thiếu hoạt động như tình
hình đã từng xảy ra. Hệ thống tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ của Đảng phải
giải phóng khỏi tính chất quan liêu, hành chính, tập trung những nguồn lực tốt nhất cho các cơ quan tư tưởng lý luận, tổ
chức và kiểm tra để hoạt động của
Đảng thực sự là hoạt động lãnh đạo có tầm tư tưởng, trí tuệ cao, nhạy bén trong
lĩnh vực tổ chức, năng động và kiên quyết, kịp thời và hữu hiệu trong kiểm tra
xử lý tình hình ở khắp mọi nơi. Đó là những yêu cầu không thể thiếu đối với tổ
chức và lãnh đạo của Đảng.
Hệ
thống tổ chức các cơ quan Nhà nước làm nhiệm vụ quản lý lại phải được thiết kế
sao cho các cơ quan này đảm trách được chức năng quản lý hành chính nhà nước tốt nhất đối với các lĩnh vực kinh tế - xã
hội, tách bạch quyền quản lý hành chính nhà nước với quyền quyết định sản
xuất - kinh doanh thuộc về thẩm quyền và trách nhiệm của các doanh nghiệp,
không có sự lẫn lộn, can thiệp, bao biện, lấn sân, chống chéo. Quản lý là tạo
điều kiện về môi trường xã hội, hành lang pháp lý, cung cấp thông tin, xác lập
cơ chế, ban hành chính sách và hỗ trợ các nguồn lực, tạo ra động lực phát triển cho các cấp, các ngành, ở địa phương và
cơ sở. Muốn vậy, phải tăng cường chức năng công quyền của nhà nước, tổ chức nhà
nước theo hướng hiện đại, đặc biệt chú trọng tới các công cụ và công nghệ quản
lý. Bộ máy, theo Lênin phải mạnh mẽ, vững chắc nhưng để hành động và phối hợp
hành động chứ không phải trở nên sơ cứng, trì trệ, quan liêu và bảo thủ.
Tạo
ra một nền hành chính lành mạnh, thông suốt; xây dựng đồng bộ hệ thống luật và
chính sách; đảm bảo chất lượng đội ngũ công chức được đào tạo cơ bản, tinh
thông chuyên môn nghiệp vụ, tận tụy mẫn cán, am hiểu pháp luật và tôn trọng
pháp luật, có chế độ công vụ, kỷ luật và đạo đức công chức được đề cao. Đó là
những đòi hỏi rất bức xúc hiện nay đối với nhà nước trên con đường tiến tới Nhà
nước pháp quyền.
Đảng
lãnh đạo Nhà nước cần phải tập trung vào những trọng điểm như thế để nhà nước
và mọi hoạt động của nhà nước đảm bảo thực hiện tốt nhất đường lối, cương lĩnh
của Đảng bằng sức mạnh của nhà nước, bằng
năng lực và phẩm chất của các công chức nhà nước.
Ba là, phương pháp lãnh đạo của Đảng khác với
phương pháp quản lý của nhà nước, đào tạo và huấn luyện cán bộ đảng khác với
đào tạo, huấn luyện công chức nhà nước, việc bố trí, sử dụng cán bộ trong cơ
quan Đảng khác với bố trí sử dụng cán bộ công chức trong cơ quan nhà nước.
Như
đã nói, đặc trưng lãnh đạo của Đảng là
lãnh đạo chính trị. Mọi công việc, mọi hoạt động, mọi tổ chức và cơ quan
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều cần đến những định hướng chính trị
đúng đắn, rõ ràng, sáng suốt. Do đó, lãnh
đạo chính trị của Đảng là lãnh đạo toàn diện ở tầm quan điểm, đường lối, nguyên
tắc, phương hướng. Đây là những vấn đề cực kỳ hệ trọng, đòi hỏi trình độ
khoa học, tư tưởng, trí tuệ cao, nhạy bén, sâu sắc, luôn vươn kịp tới trình độ
hiện đại, cách tân, sáng tạo bằng đổi mới và thường xuyên đổi mới.
Là
lực lượng dẫn đường cho sự phát triển xã hội, Đảng luôn ở vào vị thế, vai trò
và trách nhiệm hết sức quan trọng, quyết định sự thành bại của công cuộc đổi
mới và phát triển ở nước ta.
Đảng
có uy tín, ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp dân chúng và xã hội. Sự lãnh
đạo của Đảng bao trùm toàn quốc, ở mọi lĩnh vực, mọi cấp, mọi ngành, từ cơ sở
đến địa phương và Trung ương.
Những
phương thức đặc trưng cho lãnh đạo của Đảng là giáo dục tuyên truyền, vận động,
thuyết phục, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát. Lãnh đạo bằng sự gương mẫu là một đặc trưng quan trọng trong lãnh đạo
của Đảng, của các tổ chức Đảng và đảng viên. Đảng đặc biệt chú trọng củng
cố sự vững mạnh các cơ sở xã hội của Đảng, biểu hiện ở mối liên hệ mật thiết
giữa Đảng với dân, giữa cán bộ đảng viên với quần chúng.
Đào
tạo huấn luyện trong Đảng về thực chất là đào tạo lý luận chính trị trên cơ sở
một nền tảng học vấn, chuyên môn nhất định của cán bộ đảng viên. Đào tạo huấn
luyện trong Đảng còn không thể xem nhẹ vấn đề giáo dục rèn luyện phẩm chất, đạo
đức cách mạng, công tác đoàn thể, công tác vận động quần chúng, năng lực và
phương pháp làm việc với con người.
Theo
đó, tác dụng và ý nghĩa sâu xa của đào tạo, huấn luyện trong đảng là đào tạo, giáo dục và thực hành văn hóa chính
trị. Điều này đặc biệt cần thiết và quan trọng đối với mọi cán bộ, đảng
viên của Đảng Cộng sản cầm quyền, làm việc và hoạt động ở mọi lĩnh vực, ở các
cơ quan Đảng, nhà nước và các đoàn thể, nhất là đối với các cán bộ Đảng chuyên
trách, những người hoạt động chính trị chuyên nghiệp.
Việc
bố trí, sử dụng cán bộ trong các cơ quan Đảng đòi hỏi phải chú trọng tới tư
cách đảng viên trên tất cả các mặt phẩm chất và năng lực, đặt họ vào những công
việc, những cương vị, chức trách sao cho họ phát huy tốt nhất những kiến thức
và kinh nghiệm của họ.
Tư
cách đảng viên trong thời kỳ đổi mới thể hiện trên 3 phương diện: người lao
động giỏi, người công dân gương mẫu và người chiến sĩ tiên phong trong đổi mới.
Không phải mọi cán bộ đảng viên đều đã đạt tới những chuẩn mực ấy. Không ít
những đảng viên còn thua kém quần chúng ngoài Đảng cả về năng lực chuyên môn và
phẩm chất đạo đức. Đó là điều không thể chấp nhận đối với yêu cầu xây dựng Đảng
trong sạch vững mạnh, nó làm phương hại tới uy tín, thanh danh của Đảng Cộng sản
cầm quyền.
Do
đó, Đảng và các tổ chức Đảng phải có kế hoạch và biện pháp giáo dục, rèn luyện
đảng viên sao cho tình trạng trên đây sớm được khắc phục. Lênin đã phải ra chỉ
thị thanh Đảng trong thời kỳ NEP, trù tính rằng, phải đưa ra khỏi Đảng từ 10
đến 20 vạn người là vì thế(1). Yêu cầu phát triển mới
hiện nay đòi hỏi chất lượng ngày càng cao đối với đội ngũ cán bộ đảng viên bất
kỳ ở các cơ quan nào, cấp nào, ngành nào. Đã có lúc xảy ra tình trạng bố trí
không đúng cán bộ, đánh giá và xử lý cán bộ không nghiêm túc, gây tổn hại tới
công việc và ảnh hưởng xấu tới tâm lý, nhận thức của quần chúng. Những người
yếu về năng lực, kém về phẩm chất, làm hỏng việc, phạm sai lầm... lẽ ra phải bị
xử lý nghiêm khắc, phải thải loại để giữ gìn sự nghiêm minh của điều lệ Đảng và
pháp luật nhà nước thì trái lại, không ít trường hợp lại được cất nhắc, đề bạt,
thuyên chuyển giữa các cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể, gây nên những phản
cảm nặng nề trong xã hội, làm mất lòng tin của dân chúng. "Tiến vi bộ,
thoái vi ban", lời nhận xét, phẩm bình này hàm ý chê trách, phê phán của
dư luận xã hội là một thực tế và cần phải sửa chữa, không được lặp lại, nó có hại cho Đảng và Nhà nước.
Nhà
nước quản lý xã hội bằng luật pháp, cơ chế, chính sách và những công cụ quản lý
khác, trong đó hạt nhân của thể chế quản
lý là luật pháp. Cần thấy rõ đặc trưng của quản lý nhà nước với tư cách và
thẩm quyền của cơ quan quyền lực và hệ thống tổ chức quyền lực. Việc phê phán
tình trạng quan liêu hóa, hành chính hóa, hoàn toàn không có một chút gì chung
với việc xem nhẹ phương thức hành chính, coi thường hành chính học vốn là điều
cần thiết trong quản lý. Cũng như vậy, đã
quản lý thì phải có uy quyền và trật
tự quyền uy rõ ràng để không rơi vào tình trạng "trên nói dưới không
nghe". Chống tập trung quan liêu nhưng không vì thế mà xem nhẹ tập trung,
đề cao dân chủ nhưng không được tách rời pháp luật, kỷ luật, kỷ cương dẫn tới
thói tự do vô chính phủ. Vấn đề là ở chỗ, thiết lập lại trật tự theo nguyên tắc
tập trung dân chủ. Việc tháo rỡ những lực cản đối với dân chủ đồng thời phải
tạo ra những hành lang an toàn để chặn đứng những phản dân chủ có thể xảy ra.
Tất cả là ở sức mạnh của luật pháp, quy chế và các chế tài. Giải quyết các mối
quan hệ giữa tập trung với dân chủ, giữa tập quyền với tản quyền, phân cấp và
phân quyền trong quản lý nhà nước đang là một vấn đề thời sự, hướng tới một nhà
nước pháp quyền. Đặc thù của quản lý nhà nước quy định đặc thù của công tác đào
tạo huấn luyện công chức. Hồ Chí Minh đã sớm đặt vấn đề về chế độ thi tuyển,
sát hạch công chức, đòi hỏi công chức nhà nước phải thạo về chính trị, giỏi
chuyên môn, có đạo đức liêm khiết trong sạch, cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư.
Chế
độ trách nhiệm, kỷ luật và đạo đức công chức được tăng cường và chú trọng thực
hiện thường xuyên, nghiêm túc là nhân tố đảm bảo cho nhà nước trong sạch, cho
nền hành chính công thông suốt, lành mạnh, phục vụ dân chúng có kết quả. Việc
bố trí, sử dụng công chức đã và đang đi theo hướng tiêu chuẩn hóa, chuyên môn
hóa, chuyên nghiệp hóa. Điều cần thiết lúc này là những thay đổi về cơ chế,
chính sách, tạo động lực thúc đẩy công chức làm việc tự giác, tích cực, tận
tụy, liêm khiết, đảm bảo cho đội ngũ và từng cá nhân tự mình chống quan liêu,
tham nhũng thực hành dân chủ, liêm khiết, công tâm, chính tâm như Hồ Chí Minh
đã từng nêu ra.
Những sự phân biệt và phân định trên đây đã
cố gắng làm rõ những khác biệt giữa Đảng và Nhà nước trên một số mặt căn bản.
Những
khác biệt đó được nhận thức đúng sẽ là cơ sở để thực hiện những đổi mới trong
Đảng, trong nhà nước và HTCT nhằm làm tăng hiệu quả lãnh đạo của Đảng cầm
quyền, quản lý của nhà nước, tham gia kiểm tra, giám sát của các đoàn thể cùng
hướng vào mục đích đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Phân
biệt những điểm khác nhau giữa thực thể này với thực thể khác không có nghĩa là
tách rời, biệt lập chúng với nhau, càng không có nghĩa là đối lập cái này với
cái kia. Trong tính chỉnh thể hệ thống, phát triển chỉ đạt được bởi tập trung
mọi nỗ lực theo cùng một chiều hướng với một hệ mục tiêu, hệ giá trị được xác
định.
Xã
hội đang tiếp tục đổi mới và đang ở vào thời kỳ mới của sự phát triển.
Một
Đảng Cộng sản cầm quyền trong sạch vững mạnh, lãnh đạo Nhà nước và xã hội đúng
đắn, theo đúng quy luật, đáp ứng đúng những đòi hỏi của thực tiễn, có tầm nhìn
xa trông rộng, có những quyết sách sáng suốt kịp thời, có phong cách dân chủ,
trọng sự thật và dũng cảm tự phê phán để tự đổi mới, đi tiên phong trong đổi
mới, với đội ngũ cán bộ đảng viên gương
mẫu, lời nói đi đôi với việc làm... - đó là nhân tố đảm bảo quan trọng
nhất, quyết định thành công của đổi mới.
Trong
tình hình hiện nay, việc triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng là then
chốt, không gì tốt hơn và thiết thực hơn là vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cách mạng, Đảng chân chính
cách mạng, thực hiện 12 điều cần thiết để xây dựng Đảng, dựa vào dân mà xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước, làm cho Đảng thực
sự là đạo đức, là văn minh, nhà nước thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì
dân, xây dựng một nền chính trị đoàn kết, thanh khiết, thân dân và chính tâm,
đổi mới nội dung và phương pháp hoạt động của các đoàn thể sao cho đáp ứng tốt
nhất yêu cầu, lợi ích của dân. Bao trùm các công việc to lớn đó chính là sự
thực hành dân chủ rộng rãi mà Hồ Chí Minh coi là chiếc chìa khóa vạn năng để
giải quyết mọi khó khăn.
Đảng
cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội, cũng như nhà nước pháp quyền do Đảng
lãnh đạo mà chúng ta đang xây dựng đang cần đến sự nỗ lực vượt bậc để trưởng
thành theo tinh thần Khoa học hóa, trí
tuệ hóa, dân chủ hóa để thực sự tiêu biểu cho trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!