PGS,TS.
ĐOÀN THỊ MINH OANH
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
1. Yêu cầu khách quan về kiểm soát
quyền lực nhà nước
Trên nền tảng kinh tế-xã hội tạo lập
sau hơn 25 năm đổi mới, bước đầu Việt Nam đã xác lập được những phương thức,
phương tiện cơ bản, chính yếu để phát triển đất nước theo hướng văn minh, tiến
bộ, phù hợp với yêu cầu và những giá trị phổ quát của thời đại ngày nay, đó là:
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhà nước pháp quyền, nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thực hiện công bằng xã hội trong từng bước phát
triển... Tuy nhiên, cũng trong quá trình đổi mới đất nước, đã bộc lộ những bất
cập, hạn chế trên nhiều lĩnh vực – điều đó đặt ra yêu cầu tiếp tục đổi mới,
hoàn thiện những “bộ công cụ”, những phương tiện xây dựng, phát triển xã hội;
trong đó, việc xác lập được những nguyên tắc cơ bản - “bộ khung thép” trong
quản trị xã hội là yếu tố cơ bản, tiền đề.
Khái niệm “quản trị xã hội” được đề
cập đến ở đây là theo nghĩa quản trị quyền lực nhà nước, để không sản
sinh ra độc tài cá nhân, độc tài nhóm; và trên hết, làm cho toàn thể xã hội,
toàn thể nhân dân không chỉ có khả năng ngăn ngừa, mà còn có đủ quyền lực để
loại trừ chúng.
Nhà nước là bộ máy quyền lực của xã
hội, được xã hội ủy quyền để tổ chức và quản lý, vận hành đời sống xã hội, dẫn
dắt xã hội phát triển thông qua việc xác định, kiến tạo cơ chế, thiết chế,
chính sách… Ở Việt Nam, mô hình nhà nước là Nhà nước pháp quyền XHCN. Vậy từ
đâu xuất hiện yêu cầu kiểm soát quyền lực nhà nước pháp quyền XHCN? Có thể gọi
tên những nguyên do sau:
Một là, kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản
chất của Nhà nước pháp quyền XHCN. Với Nhà nước pháp quyền XHCN, quản trị xã
hội được tiếp cận chủ yếu từ góc độ quyền lực nhà nước không phải là
quyền lực tự có, mà là quyền lực của nhân dân; Nhà nước được nhân dân ủy quyền,
nhân dân giao quyền, nghĩa là quyền lực nhân dân trở thành quyền lực nhà nước.
Chính từ bản chất của Nhà nước đó mà xuất hiện, nảy sinh nhu cầu, đòi hỏi chính đáng và tự nhiên phải kiểm soát quyền
lực nhà nước từ phía người ủy quyền - từ phía nhân dân. Mặt khác, nhận được sự
ủy thác của nhân dân, quyền lực nhà nước lại thường vận động theo xu hướng tự
phủ định mình, trở thành đối lập với chính mình lúc ban đầu - từ quyền lực của
số đông/của nhân dân chuyển sang quyền lực của số ít/của một nhóm người/của một
người. Theo cách nói của C.Mác thì đây là hiện tượng tha hóa quyền lực nhà
nước.
Hai là, kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ vấn đề đạo đức,
khả năng của người thực thi quyền lực trong bộ máy nhà nước. Có một logic hết
sức đơn giản: Quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua bộ máy nhà nước - bộ
máy nhà nước là do những con người cụ thể vận hành, mà hành động của con người
luôn luôn chịu sự tác động của các loại tình cảm và dục vọng khác nhau, trong
đó có cả thứ tình cảm và dục vọng tầm thường mạnh hơn lý tính, nhấn chìm lý
tính. Một khi lý tính bị chi phối bởi các dục vọng, thói quen hay tình cảm, thì
khả năng sai lầm trong hành động - cụ thể ở đây là thực thi quyền lực nhà nước
càng lớn. Bên cạnh đó, con người bị điều khiển bởi nhiều khát vọng, trong đó có
khát vọng về quyền lực vừa là mục tiêu, vừa là công cụ để đạt được các khát
vọng khác. Hobbes nhấn mạnh: “Tinh thần vị kỷ trong
loài người là một khát vọng không ngừng đối với quyền lực và điều này chỉ mất
đi khi con người chết”1. Trong khi đó, bản chất của con người là có
thể thay đổi; do đó, không thể khẳng định người được ủy quyền luôn xứng đáng
với sự tín nhiệm của nhân dân. Không chỉ có vậy, lao động quyền lực được thực
hiện thông qua những con người cụ thể. Mà khả năng của con người là hữu hạn bắt
nguồn từ sự hữu hạn của trí tuệ và lý tính của mình; từ đó, dẫn đến khả năng
sai lệch trong nhận thức và thực thi quyền lực nhà nước, làm biến dạng quyền
lực nhà nước theo chiều hướng bất lợi cho xã hội. Vì vậy, cần phải kiểm soát
một cách chặt chẽ những con người làm việc trong bộ máy quyền lực nhà nước,
nhằm phát hiện và xử lý khi những người này không còn xứng đáng với sự ủy
quyền/tín nhiệm của nhân dân.
Ba là, kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền XHCN còn là
tất yếu kỹ thuật, nhằm thực thi quyền lực ấy một cách hiệu quả. Quyền lực nhà
nước nếu không được tổ chức thành hệ thống, tuân theo những nguyên tắc, cơ chế,
quy trình nhất định và được thực thi bởi những con người cụ thể, thì quyền lực
không phát huy được vai trò cần có của mình, không đủ năng lực, khả năng điều
hành xã hội. Ngày nay, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công
nghệ, xã hội càng trở nên hiện đại, tổ chức quyền lực nhà nước lại càng phải có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát. Đây là một yêu cầu khách quan do sự phân
công lao động xã hội, do tính chuyên nghiệp hóa của hoạt động quyền lực. Ngoài
ra, quyền lực nhà nước không phải là một đại lượng có thể cân, đong, đo, đếm…
để từ đó có thể giao quyền một cách cụ thể, chi tiết. Tính không xác định rõ
ràng của việc giao quyền lực là nguồn cội của sự lộng quyền, của mâu thuẫn
chồng chéo hoặc trùng lắp trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước, làm cho hiệu lực và hiệu quả
thực thi quyền lực nhà nước bị hạn chế.
Bốn là, kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt
Nam còn bắt nguồn từ đặc trưng Nhà nước Việt Nam do một Đảng duy nhất – Đảng
Cộng sản lãnh đạo. Là Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn diện, triệt để, Đảng Cộng
sản Việt Nam là hạt nhân của hệ thống chính trị. Để thực hiện chủ trương, đường
lối của Đảng, quyền lực nhà nước được thể hiện bằng sức mạnh của bộ máy nhà
nước trong việc, thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các chủ thể cấu
thành hệ thống chính trị: Kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước;
kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước; kiểm soát quyền lực giữa nhà nước ở Trung ương và quyền lực nhà nước ở
địa phương; kiểm soát của chủ thể lãnh đạo nhà nước là Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với Nhà nước. Đây là sự kiểm soát chéo, nhằm mục đích đảm bảo cho tổ chức
và hoạt động của Nhà nước vận hành nhịp nhàng, ăn khớp, thông suốt, không rơi
vào tình trạng lạm quyền, dẫn đến tham nhũng; đến lượt mình, tham nhũng kích
thích lạm quyền. Kiểm soát quyền lực của Nhà nước chính là hình thức biến khát
vọng “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân” thành hiện thực, đem quyền lực ấy phục vụ con người, “tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân”2.
2. Dân chủ - giá trị phổ quát của
nhân loại và thời đại
Dân chủ theo nguyên nghĩa của nó là
quyền lực của nhân dân, thuộc về nhân dân. Nội dung và ý nghĩa của “dân chủ”
cũng như “nhân dân” (dân, công dân, cộng đồng, dân tộc, giai cấp…) có tính
động, không tĩnh tại, không bất biến, biến đổi trong những điều kiện lịch sử,
cụ thể, xác định chứ không trừu tượng, ở bên ngoài lịch sử.
C.Mác mô tả sức mạnh con người qua
sự sáng tạo, chủ động và làm chủ. Sức mạnh ấy là vô biên, bởi nó có khả
năng tạo ra một thiên nhiên thứ hai - đó là xã hội và lịch sử. Con người và
loài người sáng tạo ra xã hội, lịch sử của mình theo quy luật của cái đẹp, thực
hiện hoài bão được là CHÍNH MÌNH - là chủ và làm chủ bản thân, làm chủ xã hội,
thực hành và thụ hưởng DÂN CHỦ. Ngay từ đầu, dân chủ đã biểu hiện như
một sức mạnh bản chất của con người, mang ý nghĩa nhân tính và giá
trị xã hội. Khi xã hội xuất hiện giai cấp, trong thực tế, con người luôn bị
thống trị bởi những thế lực trong chính xã hội con người. Theo nguyên lý phát
triển, sự nô dịch con người trong xã hội bởi con người (những thế lực xã hội
thống trị con người) sẽ dần bị thu hẹp, loại bỏ. Dân chủ là thuộc tính riêng có
của đời sống con người, xã hội con người với lịch sử biến đổi đầy thăng trầm,
liên tục hoặc đứt đoạn, song xu hướng phát triển của dân chủ cả về nội dung,
mức độ và phạm vi là tất yếu, nó chiến thắng mọi thế lực, mọi sức mạnh phi nhân
tính. Dân chủ là giá trị chung, phổ quát của mọi thời đại.
Dân chủ là một khái niệm chính trị -
xã hội, thực chất phản ánh mối quan hệ quyền lực - lợi ích của
các chủ thể trong xã hội. Vì vậy, dân chủ được tiếp cận chủ yếu từ
phương diện chính trị. Dân chủ là tuyên bố chính thức về quyền tự do, bình đẳng
của mọi công dân3. Như vậy, dân chủ là giá trị chung nhất của con
người, của nhân loại và của hầu hết các thời đại, đặc biệt là đương đại. Song,
dân chủ không bỗng dưng mà có; dân chủ không từ trên trời sa xuống. Dân chủ có
với mỗi cá nhân, có trong xã hội loài người thông qua nỗ lực của chính con
người bằng thể chế, thiết chế và cơ chế do con người xác lập. Thể chế và thiết
chế càng văn minh, tiến bộ, dân chủ càng được đảm bảo, hiệu lực quyền lực của
nhân dân càng cao.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
quan tâm đến thiết chế và cơ chế làm chủ - làm chủ cái gì, làm chủ như
thế nào, làm chủ bằng cách nào, nhằm tạo điều kiện, cơ hội cho dân
làm chủ. Nhà nước phải có thiết chế và cơ chế để người dân phát huy quyền làm
chủ của mình. Và quan trọng hơn, thiết chế, cơ chế ấy phải hữu dụng và được
thực hiện triệt để trong thực tiễn. Trong lịch sử nhân loại, cả cận đại và
đương đại, không ít cơ chế dân chủ được xây dựng, được long trọng tuyên bố chỉ
để mỵ dân, còn trong thực tế thì hoạt động trái ngược và kết quả tất yếu, dù
sớm, dù muộn, cuối cùng cũng bị bóc trần và bị lật đổ. Đó là bài học chung cho
cả nhân loại.
Ở Việt Nam, ngay từ khi Nhà nước ra
đời, xây dựng nền dân chủ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chính phủ khởi xướng và
là mục tiêu hướng tới trong suốt những năm qua.
Cũng ngay từ ban đầu và cả ở hiện tại, thực hành dân chủ và kiểm soát quyền lực
nhà nước luôn được đặt ra. Về bản chất, mối quan hệ ấy đồng thời phản ánh quan
hệ nhân dân với Nhà nước và Nhà nước với nhân dân:
Nhân dân thực hành quyền làm chủ
trong việc tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua các thiết chế xã
hội.
Thiết chế xã hội "là khái niệm
chỉ toàn bộ hệ thống tổ chức và hệ thống giám sát mọi hoạt động xã hội. Nhờ các
thiết chế xã hội mà các quan hệ xã hội kết hợp lại với nhau, đảm bảo cho các
cộng đồng hoạt động nhịp nhàng". Về mặt tổ chức, thiết chế xã hội là hệ
thống các cơ quan quyền lực, các đại diện cho cộng đồng, đảm bảo những hoạt
động đáp ứng những nhu cầu khác nhau của cộng đồng và cá nhân. Ngoài việc giám
sát của các hệ thống tổ chức, còn có hệ thống giám sát không theo hình thức có
tổ chức. Đó là phong tục, tập quán, dư luận, luôn luôn đánh giá và điều chỉnh
hành vi của các thành viên trong cộng đồng. Như vậy, có thể hiểu rằng, hệ thống
thiết chế xã hội gồm hai yếu tố cấu thành căn bản: 1) Hệ thống tổ chức; 2) Hệ
thống giá trị chuẩn mực. Vị trí, vai trò của hai yếu tố này trong kiểm soát
quyền lực của nhà nước quan trọng như nhau, có giá trị bổ sung, hỗ trợ lẫn
nhau.
Thực hiện dân chủ và bảo đảm dân chủ
là một công việc không hề dễ dàng, nó liên quan đến cơ chế, tập quán, truyền
thống, thậm chí là thói quen của con người, của cộng đồng người. Nó đòi hỏi ý
thức về dân chủ, với năng lực thực hành dân chủ và những điều kiện đảm bảo cho
sự phát triển cả ý thức và năng lực đó ở mỗi cá nhân và cộng đồng dân cư phát
triển ở mức độ cao và ngày càng hoàn hảo. Nhìn chung, thực hành dân chủ là một
sự liên kết xã hội, hình thành năng lực xã hội để phát triển trong sự tác động
qua lại giữa quyền và nghĩa vụ. Cũng từ đây, xuất hiện những đòi hỏi cao về
năng lực và đạo đức đối với cá thể người – con người trong quá trình tham gia
vào hoạt động quản lý, vào đời sống chính trị-xã hội, vào các công việc của Nhà
nước, của các tổ chức chính trị-xã hội. Đó trước tiên là những yêu cầu về ý
thức chính trị, năng lực chính trị, bản lĩnh chính trị của mỗi công dân trong
tư cách con người chính trị của nó. Chỉ có những con người có phẩm chất
chính trị, thấm đẫm những tư tưởng, nhận thức đúng đắn về dân chủ, có ý thức xã
hội, tôn trọng nhân cách… mới có thể tham gia kiểm soát quyền lực nhà nước một
cách thực sự, hữu hiệu thông qua chế độ ủy quyền, phương thức dân chủ đại diện
và dân chủ trực tiếp. Có như vậy, sẽ đảm bảo cho sự bình đẳng, tự do, sáng tạo
nhìn từ phương diện nhân văn xã hội, văn hoá và đạo đức – những biểu hiện tập
trung, cao nhất của dân chủ.
Nhà nước quản trị đời sống xã hội,
đảm bảo dân chủ trong thực hành quyền lực thông qua các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
Pháp luật là một trong những công cụ
và phương tiện quản lý chủ yếu nhất của nhà nước. Pháp luật là một trong những
yếu tố cấu thành nội dung của dân chủ, nó thuộc về cấu trúc nội tại của dân
chủ. Pháp luật là giới hạn của dân chủ trong các thể chế nhà nước. Pháp luật
xác định hành lang vận động của dân chủ, của công dân cũng như của xã hội, của
cả bản thân nhà nước. Để tạo cơ sở cho thực hành và phát triển dân chủ,
không có con đường nào khác ngoài con đường xây dựng một nhà nước pháp quyền,
quản lý xã hội bằng pháp luật; trong đó, các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp phải được phân định rành mạch. Phân định rành mạch các quyền
nói trên chính là tránh để nhà nước không “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, là điều
kiện quan trọng, thiết yếu để kiểm soát quyền lực nhà nước triệt để.
3. Phương thức kiểm soát quyền lực
nhà nước
Trên thực tế trải qua gần 70 năm xây
dựng Nhà nước Việt Nam – “nhà nước của dân, do dân, vì dân”, “chỉ có một mục
đích là phục vụ nhân dân”, “thực hành quyền làm chủ của nhân dân” và từ những
năm 90 của thế kỷ XX, tư tưởng nhà nước pháp quyền được thể hiện rõ trong hệ
thống luật pháp4, song lại có hiện tượng ở nhiều nơi, nhiều lúc dân
chủ bị vi phạm nghiêm trọng; thậm chí tệ quan liêu, tham nhũng gây phiền hà cho
nhân dân trở nên phổ biến, làm “nhem nhuốc” mối quan hệ công dân và nhà nước,
gây ra những “chấn thương tâm lý” xã hội, bào mòn lòng tin của người dân về bản
chất của chế độ. Không chỉ có vậy, sự lũng đoạn của nhóm lợi ích đang ở mức độ
báo động, gây ra những hậu quả vô cùng to lớn đối với đất nước, xã hội, con
người, tạo ra nguy cơ gây suy yếu đất nước từ bên trong, bị đe dọa từ bên
ngoài. Đó là những bằng chứng đối lập với dân chủ, có nguyên nhân gốc rễ từ
việc tha hóa quyền lực nhà nước, từ việc bê trễ kiểm soát quyền lực nhà
nước. Vậy nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước bằng con đường
nào? Nhìn tổng quát, có hai phương thức chủ chốt:
Thứ nhất, bằng sức mạnh của nhân dân. Trong xã hội dân chủ, mỗi cá
thể đơn lẻ cũng như cộng đồng xã hội đều là chủ thể của quyền lực nhà nước.
Nhân dân trao quyền/ủy quyền cho nhà nước quản lý xã hội thông qua pháp luật.
Do vậy, Nhà nước - nhân dân; nhân dân – Nhà nước quan hệ, tác động, kiểm soát
lẫn nhau thông qua pháp luật; trong đó, nhà nước và công dân bình đẳng trong
thực hiện pháp luật. Tuy nhiên, đây chính là yêu cầu khó thực hiện nhất, là
“điểm nghẽn” trong thực hành và bảo đảm dân chủ. Quan hệ giữa nhân dân – Nhà
nước thường xuyên là mối quan hệ bất đối xứng, bất bình đẳng mà ở đó sự bất
bình đẳng, tất nhiên, thường thuộc về phía nhân dân.
Trong quan hệ bất bình đẳng giữa
nhân dân với nhà nước ở điều kiện xã hội hiện đại và Việt Nam thì bất bình đẳng
về thông tin là một trong những bất bình đẳng phổ biến, gây ra những bất cập to
lớn, hạn chế quyền làm chủ của người dân. Bất bình đẳng về thông tin giữa dân
chúng và Nhà nước tạo ra những cơ hội cho các công chức lạm dụng quyền lực,
trục lợi riêng. Bất bình đẳng về thông tin giữa dân chúng và Nhà nước còn tạo
ra những công dân “mù chính trị”, không chỉ mất khả năng thụ hưởng quyền lợi, mà
thậm chí còn không thể thực hiện nghĩa vụ - làm
tổn hại trực tiếp đến hoạt động xã hội, đến hoạt động điều hành xã hội của nhà
nước. Do vậy, minh bạch hóa thông tin là yêu cầu tối thiểu cho tiến bộ
xã hội, cho nâng cao trình độ dân trí, cho giác ngộ chính trị, dân chủ, cho
thực hành và đảm bảo dân chủ.
Nếu minh bạch hóa thông tin là yêu
cầu đầu tiên, thì hoàn thiện phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp5,
hoàn thiện chức năng của các tổ chức dân sự là yêu cầu cao hơn, trực tiếp chi
phối, quyết định đối với thực hành và đảm bảo dân chủ của người dân. Đối với
hoàn thiện dân chủ trực tiếp, hai nội dung: Trưng cầu dân ý; miễn nhiệm, bãi
miễn Hội đồng nhân dân các cấp6 là hết sức quan trọng, cần được thực
hiện nghiêm túc, thường xuyên. Đối với hoàn thiện chức năng các tổ chức dân sự,
cần chú ý hoàn thiện chức năng giám sát xã hội và phản biện xã hội trên nguyên
tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đó chính là phương thức cần
thiết để bảo đảm quyền tự quản, quyền tham gia quản lý xã hội của nhân dân ở cộng
đồng vi mô vốn thường xuyên nảy sinh những điều bất thường, tất nhiên và ngẫu
nhiên. Hoàn thiện phương thức thực hiện dân chủ trực tiếp, hoàn thiện chức năng
của các tổ chức dân sự chính là khắc phục căn bệnh hành chính trong quản lý
phát triển xã hội, sử dụng tiếng nói của người dân, của xã hội như một "áp
lực xã hội" buộc Đảng, Nhà nước phải biết lắng nghe, biết mở rộng quyền
lực cho dân chúng, nhằm tiếp thêm sinh khí cho hoạt động quản trị xã hội, không
rơi vào tha hóa quyền lực.
Thứ hai, xây dựng thiết chế, cơ chế hoạt động của Nhà nước một cách
khoa học. Tha hóa quyền lực nhà nước thường xuất hiện do nguyên nhân nội tại
của bản thân bộ máy nhà nước, trước tiên là do cơ chế kiểm soát quyền lực nhà
nước yếu kém. Do vậy, xây dựng cơ chế giám sát hữu hiệu trong bản thân bộ máy
nhà nước là thao tác đầu tiên để kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây cũng là hình
thức kiểm soát quyền lực nhà nước quan trọng nhất, hiệu quả nhất và ít tốn kém
nhất. Nội dung căn bản của việc kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong là
giải quyết mối quan hệ phân công, phân quyền giữa các cơ quan nắm giữ quyền lực
nhà nước; trong đó, vấn đề phân định, kết hợp các quyền lập pháp7,
hành pháp8 và tư pháp9 là nội dung cốt lõi, nhằm: Một
mặt, đảm bảo những điều kiện cơ bản để nhân dân giao quyền mà không bị lạm
quyền, nhân dân kiểm soát, đánh giá được hiệu lực và hiệu quả thực hiện các
quyền mà mình đã giao; mặt khác, làm cho các cơ quan tương ứng được giao
quyền đề cao trách nhiệm trong việc thực thi quyền lực nhà nước và tự kiểm tra
việc thực hiện quyền lực nhà nước được giao của mình. Vì thế, phân công quyền
lực nhà nước là cơ sở, là đòi hỏi khách quan để thực hiện kiểm soát quyền lực
nhà nước. Sự phân định và kết hợp ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp giúp
cho: 1) Các cơ quan hành pháp và tư pháp làm đúng, làm đủ nhiệm vụ quyền hạn
được giao, hạn chế lộng quyền; 2) Chính phủ quản lý đất nước hữu hiệu, trở nên
nhanh nhạy, quyết đoán, hành động kịp thời; 3) Nhà nước và nhân dân sống, hành
động tuân theo pháp luật. Pháp luật trở thành quyền lực tối thượng, bất phân
quan chức cấp cao hay dân thường, Nhà nước hay công dân đều bình đẳng trước
pháp luật.
Quyền lực nhà nước được thực thi
thông qua những con người cụ thể. Do vậy, con người trong bộ máy nhà nước phải
được tuyển dụng công khai, minh bạch, dựa trên những bộ tiêu chí khoa học, tiến
bộ, phù hợp chức năng hoạt động và thực tiễn. Cần đặc biệt chú ý trong tuyển
dụng, quy hoạch, bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm đối với các vị trí quản lý, lãnh đạo
các cấp. Phải có quy định pháp lý cụ thể về trách nhiệm cá nhân của người đứng
đầu (không thể chỉ có trách nhiệm tập thể và do đó cá nhân người đứng đầu chỉ
chịu trách nhiệm chính trị). Với nét tâm lý phổ biến của người Việt Nam trong
hoạt động là thường nhìn sang ngang – nhìn nhau, nhìn lên trên – nhìn vào cấp
trên, chứ ít khi nhìn vào pháp luật, nên vai trò “người đứng đầu” – người bắt
nhịp, cầm nhịp có thể nói là hết sức quan trọng và có tính quyết định. Chống
tham nhũng, chống chuyên quyền, độc đoán cần gắn chặt với trách nhiệm người
đứng đầu. “Người đứng đầu”, trước hết là 22
bộ trưởng, 63 chủ tịch tỉnh, thành phố và người lãnh đạo cơ quan các cấp – cần
tăng cường kiểm tra, giám sát những “đầu mối” này, thưởng, phạt nghiêm minh;
đặc biệt, cần xây dựng “văn hóa từ chức”.
Ở Việt Nam hiện nay, cũng như ở
nhiều quốc gia trên thế giới, muốn xây dựng, thực hành và đảm bảo dân chủ, đảm
bảo lợi ích và quyền làm chủ của người dân, phải chú trọng tính đồng bộ trong
xây dựng, vận hành cơ chế, thể chế, thiết chế hoạt động của xã hội, Nhà nước.
Từ luật pháp, chính sách, bộ máy công quyền, trình độ hiểu biết, ý thức về luật
pháp và dân chủ của dân, phẩm chất đạo đức và năng lực của người cầm quyền, của
đội ngũ công chức, viên chức thực thi công vụ... đều phải được chấn chỉnh, hoàn
thiện và kiểm tra, giám sát bằng những công cụ hiệu quả. Kiểm soát quyền lực
nhà nước phải trên cơ sở thống nhất về quyền lực nhà nước ở chủ thể cao nhất
(nhân dân) và nguyên tắc phân công quyền lực nhà nước trong bộ máy nhà nước,
nhằm tạo nên sự cân bằng quyền lực giữa các cơ quan công quyền thuộc các
nhánh quyền lực nhà nước đi đôi với ngày càng mở rộng và thực hiện quyền làm
chủ trực tiếp của nhân dân trong vai trò giám sát và phản biện chính sách xã
hội, hoạt động của Nhà nước.
Dân chủ chính là hoạt động bản chất
người của con người xã hội, sự định hướng và lựa chọn các giá trị phát triển
của con người, cá nhân và cộng đồng, sự xây dựng thể chế và tìm kiếm cơ chế vận
hành của nó. Dân chủ thể hiện trong nó một
tập hợp các mối quan hệ: Công dân - Nhà nước, cá nhân - xã hội, thành viên - cộng
đồng được chi phối bởi quyền, lợi ích với nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm và
được kiểm soát, chi phối bằng pháp luật, đạo đức, văn hóa trong thực hiện các
mối quan hệ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống con người, đời sống xã hội.
Cột trụ của dân chủ chính là nhà nước với hệ thống luật pháp của nó (nội dung và thực hiện) và sinh khí, năng lượng của dân
chủ chính là trình độ dân trí, ý thức và trình độ làm chủ của dân chúng được
khơi thông, được nâng cao. Chỉ như vậy, dân chủ mới trở thành thực tế chứ không
dừng ở mong muốn, ý nguyện, khát vọng, lý thuyết.
_________________
Chú thích
1. Hobbes. Leviathan,
Harmondsworth, Penguin, 1968, p.161 (trích theo bài Kiểm soát quyền lực
nhà nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
GS.TS. Trần Ngọc Đường - Văn phòng Quốc hội, đăng tại trang Web: VLV 5/9/2011 –
hoặc ncpl.org.vn).
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011. Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr. 238.
3. Xem: Từ điển Triết học,1986. Nxb.M,.
4. Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII
năm 1997 đưa ra khái niệm Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; Đại hội
X (2006) phát triển thành khái niệm Nhà nước pháp quyền XHCN.
5. Dân chủ trực tiếp: Trưng cầu dân
ý; chế độ bầu và bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân (các cấp và quốc hội);
hỏi ý kiến nhân dân, đưa ra dân thảo luận các chủ trương, chính sách, các quyết
định quản lý; khiếu nại, tố cáo, giải quyết khiếu nại tố cáo của nhân dân, đơn
thư dân nguyện; chế độ công khai báo cáo công việc trước dân của các cơ quan
nhà nước, cán bộ nhà nước; nhân dân có quyền bàn bạc và quyết định trực tiếp
những vấn đề phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, an ninh trật tự… trên
địa bàn địa phương, cơ sở.
6. Trong đó chú trọng làm rõ hơn vai
trò của Hội đồng nhân dân các cấp ở những nội dung: Làm rõ quyền hạn của nó
trong miễn nhiệm, bãi miễn mà còn có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức
danh do Hội đồng nhân dân bầu ra; không chỉ giám sát cơ quan hành chính cùng
cấp mà còn có quyền giám sát những công việc do cấp trên thực hiện trên địa
bàn, địa phương mình.
7. Quyền lập pháp là quyền đại diện
cho nhân dân thể hiện ý chí chung của quốc gia. Những người được nhân dân trao
quyền này là những người do phổ thông đầu phiếu bầu ra hợp thành cơ quan gọi là
Quốc hội. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đại diện
cho nhân dân, bảo đảm cho ý chí chung của nhân dân được thể hiện trong các đạo
luật mà mình là cơ quan duy nhất được nhân dân giao quyền biểu quyết thông qua
luật là quyền lập pháp; đồng thời, là người thay mặt nhân dân giám sát tối cao
mọi hoạt động của Nhà nước, nhất là hoạt động thực hiện quyền hành pháp.
8. Quyền hành pháp là quyền tổ chức
thực hiện ý chí chung của quốc gia do Chính phủ đảm trách. Thuộc tính cơ bản,
xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là quản lý nhà nước (hay cai trị) mà
thực chất là tổ chức thực hiện pháp luật để bảo đảm an ninh, an toàn và phát
triển xã hội.
9. Quyền tư pháp là quyền xét xử,
được nhân dân giao cho Tòa án và các cơ quan tư pháp, hoạt động độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất trong tổ chức thực
hiện quyền này. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức không được phép can thiệp vào
hoạt động xét xử của Tòa án. Đây thực chất
là quyền bảo vệ ý chí chung của quốc gia bằng việc xét xử các hành vi vi phạm Hiến
pháp, pháp luật từ phía công dân và cơ quan nhà nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!