Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013

MỐI QUAN HỆ GIỮA MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


TS. Nguyễn Thị Thìn
Học viện Báo chí – Tuyên truyền
Để xác định được ứng xử tối ưu trong một thế giới nhiều biến động như hiện nay, bất cứ việc đưa ra một quyết sách nào của Việt Nam cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế  cũng đều phải căn cứ vào vị trí của mình trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh (NLCT) toàn cầu, xác định rõ mô hình tăng trưởng của nền kinh tế quốc gia và chất lượng tăng trưởng để thấy được tầm quan trọng của mối quan hệ giữa mô hình tăng trưởng và năng lực cạnh tranh kinh tế, tham gia vào nền kinh tế thế giới với tư cách tích cực, chủ động, với một tầng thứ ngày một cao hơn.

 1. Chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
         Khi bàn về vấn đề tăng trưởng với tư cách là chỉ số phản ánh năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế, các chuyên gia cho rằng: nếu chỉ tính đến mức tăng GDP thuần túy năm sau so với năm trước thì chưa đủ mà còn phải là một chất lượng tăng trưởng mong đợi, gắn liền với hiệu quả của đầu tư vốn, tăng trưởng TFP và tăng năng suất nhờ vào khoa học công nghệ.
         Theo nguyên lý, hiệu quả của sử dụng vốn được thể hiện qua chỉ số ICOR, và chỉ số này có quan hệ tỷ lệ nghịch với mức tăng trưởng. Nếu như ICOR tăng cao thì tăng trưởng kinh tế giảm. Hệ số ICOR càng cao phản ánh hiệu quả đầu tư càng thấp. Còn chỉ số TFP có quan hệ thuận chiều. Nếu TFP tăng thì tăng trưởng cũng tăng.
Tại Việt Nam, hiệu quả đầu tư vốn thấp và ngày càng giảm, thể hiện ở chỉ số ICOR ngày càng tăng và cao hơn so với các nước cùng khu vực khi ở vào giai đoạn đầu của quá trình CNH. Ví dụ, giai đoạn 2000 - 20008, ICOR của Việt Nam là 4,8 thì con số này của Đài Loan thời kỳ mới chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn là 2,7. Con số tương tự tại Hàn Quốc là 3,0;của Thái Lan là 4,1; của Trung Quốc là 4,0. Chênh lệch giữa sự biến thiên của mức tăng trưởng GDP và mức tăng ICOR của Việt Nam là -0,86 trong thời kỳ 2000 – 2010. Đây là một thông tin không khả quan cho quá trình nâng cao NLCT vì mức tăng và trạng thái tăng GDP là chỉ tiêu tổng hợp và quan trọng nhất của NLCT kinh tế.
Đóng góp của TFP tại Việt Nam vào tăng trưởng thì diễn tiến ngược lại với tăng trưởng và ngày càng giảm. Nếu đem so sánh đóng góp của TFP vào mức tăng GDP tại Việt Nam hai giai đoạn 1990 – 2000 và 2000 – 2008 cho thấy mức đóng góp của TFP đã giảm từ mức 3,2/7,3  tương đương với 44% xuống 1,9 /7,3 tương đương 26%. Nếu đem so sánh với các nước khác trong khu vực thì thấy rõ mức đóng góp của TFP vào GDP của Việt Nam thấp hơn rất nhiều. Ví dụ, mức đóng góp của chỉ số này tại Trung Quốc thời kỳ 1990 - 2000 là 5,5/9,9  tương đương với 56%, thời kỳ 2000 - 2008 là 5/9,7  tương đương với 52% .
       Từ phân tích trên đây chúng ta có thể thấy chất lượng tăng trưởng của Việt Nam đang có nhiều vấn đề đáng lo ngại: mức tăng trưởng giai đoạn 2006 - 2010 giảm đi so với giai đoạn 2000 - 2005, thể hiện ở hiệu quả đầu tư vốn thấp (ICOR tăng), mức đóng góp của TFP giai đoạn sau giảm so với giai đọan trước.
         Tại Hội thảo “Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2001 - 2010 và định hướng tới năm 2020” vừa diễn ra 24/2/2011 tại Hà Nội, chất lượng tăng trưởng kinh tế bị đánh giá là thấp và chưa đạt được độ bền vững. Thể hiện ở sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, tính hiệu quả của kinh tế thấp, đồng thời, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu. Chất lượng tăng trưởng thấp còn thể hiện qua chỉ số ICOR cao, cơ cấu trong nền kinh tế thiếu tính bền vững. Mô hình tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn 2000 - 2010 đã ảnh hưởng không tốt đến NLCT của nền kinh tế. Về cơ bản, nền kinh tế vẫn tăng trưởng dựa vào các yếu tố sản xuất truyền thống (vốn, lao động, tài nguyên). Trong khi đó, xu thế chung của phát triển kinh tế hiện nay là tăng trưởng phải dựa vào các yếu tố giúp tăng cường hiệu quả và sáng tạo như sự thay đổi cơ cấu kinh tế và công nghệ. Kết luận số 02-KL/TW của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: Về khách quan, do tác động tiêu cực của tình hình kinh tế thế giới; về chủ quan là do những hạn chế, yếu kém vốn có của nền kinh tế, mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế chậm được khắc phục, bị tích tụ nặng nề hơn trong những năm phải đối phó với tình trạng suy giảm kinh tế và do một số hạn chế trong quản lý, điều hành của các cấp. Đây cũng chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trong nhiều năm qua, nước ta luôn phải đối mặt với tình trạng lạm phát cao và kinh tế vĩ mô không vững chắc, gay gắt hơn các nước trong khu vực”
 2. Mối quan hệ giữa năng lực cạnh tranh và mô hình tăng trưởng của Việt Nam hiện nay
      Trên thực tế, mô hình tăng trưởng của Việt Nam hiện nay đang hàm chứa những bất ổn trước những thách thức đang nổi lên gây cản trở cho việc thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung, chiến lược nâng cao NLCT nói riêng. Những bất ổn đó chính là các mất cân đối vĩ mô và các nút thắt về kinh tế vi mô:
         Một là, các mất cân đối vĩ mô hiện nay của Việt Nam đang thể hiện trên các khía cạnh:
         -Thâm hụt cán cân thương mại và tài khoản vãng lai do nhập siêu, chủ yếu là nhập siêu nguyên vật liệu chứng tỏ phần giá trị gia tăng thấp.
         - Mất cân đối giữa tiết kiệm và đầu tư tăng lên, các quan ngại về khả năng trang trải các thâm hụt đối ngoại ngày càng tăng với mức nợ công tăng lên, dự trữ ngoại hối giảm.
         - Lạm phát tăng buộc phải phá giá đồng tiền do áp lực tỷ giá thực tế cao hơn danh nghĩa và tình trạng đô la hóa nền kinh tế.
          Hai là, các nút thắt kinh tế vi mô gồm có:
         - Thiếu hụt lao động có kỹ năng, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng logistics chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, an ninh năng lượng đang bị đe dọa.
         - Tỷ lệ giải ngân và tác động lan tỏa tích cực của khu vực FDI thấp. Nguyên do căn bản là do chúng ta đã thiếu nghiên cứu chiến l­ợc trong sử dụng FDI. Thể chế quản lý đầu t­ tồn tại nhiều thiếu sót, pháp quy pháp luật hữu quan không kiện toàn. Hiệu suất quản lý thấp do phân tán và chức trách không rõ ràng. Chính sách ­ưu đãi có sự lệch lạc về kết cấu. Các ưu đãi thuế suất cũng bộc lộ khuyết điểm: Hỗn loạn, không đều giữa các địa phư­ơng, đi nưg­ợc lại nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng, đi ngư­ợc lại một số nguyên tắc của WTO, tạo ra những kẽ hở cho hành vi trốn thuế. Ch­ưa thực sự coi thị tr­ường là công cụ cơ bản để thu hút FDI.  Coi nhẹ môi tr­ường sinh thái trong thu hút FDI…
         - Mối quan hệ giảm dần giữa đầu tư và tăng trưởng; hệ số ICOR tăng và cao so với mức đầu tư tương ứng ở các nước khác cùng khu vực. Các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả mặc dù chiếm tỷ trọng đầu tư lớn.
         Những nút thắt nói trên (và ở đây đặc biệt nhấn mạnh đến một số bất cập trong hoạt động FDI thời gian qua) đang làm cho mô hình tăng trưởng hiện nay mất dần động lực và sẽ ngày càng trở nên trầm trọng hơn khi nền kinh tế tiếp tục mở rộng với cách thức như hiện nay.
       Về nguồn nhân lực, dù Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong đầu tư cải cách giáo dục, chi ngân sách cho giáo dục khá cao so với các nước khác trong khu vực. Năm 2009, chi cho giáo dục của Việt Nam là 5,2% GDP, cao hơn Malaixia (5%); Thái Lan: 4%. Mặc dù đã có tiến bộ nhiều nhưng hệ thống giáo dục chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội và các doanh nghiệp.
         Các vấn đề về cơ sở hạ tầng cũng còn nhiều bất cập khi Chính phủ coi việc phân bổ vốn đầu tư cơ sơ hạ tầng như một sự bù đắp cho các địa phương tăng trưởng kém, nếu nhìn tổng thể quốc gia, sẽ gây sự trùng lặp và lãng phí, trì trệ. Hiện trạng kết cấu hạ tầng của Việt Nam chưa thể đáp ứng để xây dựng và phát triển một nền kinh tế hiện đại.
         Về thể chế chính sách, một trong những thách thức lớn là việc áp dụng các quy định chính sách tùy tiện, chưa thống nhất giữa các địa phương, bộ, ngành. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài nói rằng: các quy định pháp luật ở cấp trung ương của Việt Nam là tương đối đầy đủ, cấp tiến so với trình độ phát triển nhưng việc áp dụng các quy định này ở các cấp là thiếu ổn định, nhất quán, làm gia tăng chi phí cho doanh nghiệp, vẫn là “phép vua thua lệ làng”.
         Trên góc độ tổng thể, khi đánh giá mức độ phát triển của một nền kinh tế, phải căn cứ vào rất nhiều tiêu chí. Trong trường hợp này, tiêu chí được đưa ra phân tích sẽ là: GDP/người; cơ cấu giáo dục; cơ cấu lao động chia theo khu vực và năng suất  lao động.
         Một là, GDP/người của Việt Nam trong 10 năm qua (2000- 2010) thực tế đã tăng 2,3 lần, chênh lệch giữa thành thị và nông thôn giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống còn 2 lần năm 2008,  chăm sóc sức khỏe cộng đồng và giáo dục có nhiều tiến bộ, thể chế kinh tế thị trường được định hình và phát triển có khả năng hòa nhập với nền kinh tế thị trường khu vực và toàn cầu. Việt Nam cũng đã hoàn thành phần lớn mục tiêu thiên niên kỷ đã cam kêt trước cộng đồng quốc tế đặt ra cho năm 2010. Tỷ lệ nghèo cả nước theo chuẩn mới năm 2000 là 26,0%, năm 2008 là 13,5%, năm 2010 ước còn dưới 10%... Tuy nhiên, nhìn vào bảng 1 ta thấy: GDP/người của Việt Nam dù có nhiều cải thiện nhưng đang kém các nước có thu nhập trung bình tại khu vực ASEAN và Trung Quốc 2 - 3 lần, kém Hàn Quốc 19 lần, kém những nước công nghiệp phát triển hơn 40 lần.
 Bảng 1. So sánh GDP của Việt Nam và một số nước (giá hiện hành năm 2008)
Nước
Dân số
(tr người)
 GDP(Tỷ USD, giá hh)
GDP/ người
(USD)
Chênh lệch (GDP/người; lần)
Việt Nam
86,3
89,8
1.040
1
Mỹ
304,4
14.264
46.859
45
Nhật
127
4.923
38.559
37
Anh
61,1
2.674
43.785
42
Pháp
62
2.865
46.015
44
Đức
82
3.667
44.660
43
Úc
21
1.010
47.440
46
Singapo
4,6
181,9
38.972
37
Hàn Quốc
48
947
19.504
19
Malaixia
27,2
222,2
8.140
8
Thái Lan
66,4
273,2
4.115
4
Indonexia
227,8
511,7
2.246
2
Philippines
90,3
168,5
1.865
2
Trung Quốc
1.327,6
4.401,6
3.315
3
Nguồn:  Số liệu phân tích của IMF năm 2009
         Hai là, chỉ tiêu cơ cấu GDP, cơ cấu lao động chia theo khu vực của Việt Nam còn thua kém xa so với mức bình quân chung của khu vực và chỉ tương đương với các nước NIEs cách đây 30-40 năm.  Riêng về cơ cấu lao động, mặc dù Việt Nam đã đạt tới điểm ngoặt về chuyển dịch cơ cấu lao động - tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông - lâm nghiệp giảm đi, nhưng vẫn chưa đến ngưỡng 50% là thời điểm các kinh tế gia xem là quá trình CNH thực sự bắt đầu.
         Ba là, về vấn đề năng suất lao động Việt Nam, tuy đã có cải thiện nhưng còn  thấp so với các nước trong khu vực. Năm 2008, năng suất lao động đạt 10,9 triệu đồng/ lao động, tăng 33,3% so với năm 2000, nhưng so với các nước trong khu vực là còn thấp. Năm 2007, năng suất lao động của Việt Nam là 1546 USD/ Lao động. Trong khi đó năng suất lao động của Trung Quốc cao gấp 2,6 lần, Thái Lan gấp 4,3 lần; Philipines gấp 2,5 lần. Tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam từ 2005 đến 2007 là gần 138%, trong khi tốc độ tăng cùng kỳ của Trung Quốc gần149%; TháiLan:173%; Indonexia:148,5%; Philippin: 143,6%..
           Thứ tự trong bảng xếp hạng NLCT toàn cầu của WEF cho thấy Chỉ số NLCT (Global Competitiveness Index - GCI) của Việt Nam không những tụt hạng theo thời gian, chậm được cải thiện so với các quốc gia khác trên thế giới mà còn tụt hạng so với chính bản thân chúng ta. Điểm số xếp hạng NLCT tổng hợp 3 năm gần đây của Việt Nam không những không tăng mà còn giảm. Năm 2009, trong 12 nhóm nhân tố trụ cột thể hiện năng suất và NLCT quốc gia đều có điểm số đạt dưới mức trung bình ngoại trừ tiêu chí giáo dục tiểu học và y tế. Kết quả này cho chúng ta thấy những nỗ lực nhằm nâng cao NLCT của chúng ta chưa đủ nhiều để có thể giúp chúng ta cải thiện về thứ hạng (bảng2).
   Bảng 2. Việt Nam trong bảng xếp hạng NLCT toàn cầu (2008- 2010)
     Các chỉ số xếp hạng của WEF(GIC)
Thứ hạng
Điểm(1-7)
GIC 2008- 2009 (134 nước xếp hạng)
GIC 2009 – 2010 (133 nước xếp hạng)
GIC 2010- 2011 (139 nước xếp hạng)
70
75
59
4.3
4.0
4.1
Các chỉ số cơ bản
1. Thể chế
2. Hạ tầng cơ sở
3. Môi trường kinh tế vĩ mô
4. Chăm sóc sức khỏe và GD tiểu học
74
74
83
85
64
4.4
3.8
3.6
4.5
5.7
Các chỉ số phản ánh hiệu quả nâng cao
5. GD và đào tạo bậc cao
6. Hiệu quả thị trường hàng hóa
7. Hiệu quả thị trường lao động
8. Sự phát triển thi trường tài chính
9. Năng lực công nghệ
10. Quy mô thị trường
57
93
60
30
65
65
35
4.2
3.6
4.2
4.8
4.2
3.6
4.6
Đổi mới và công nghệ cao
11. Kinh doanh công nghệ cao
12. Đổi mới
53
64
49
3.7
4.0
3.4
                      Nguồn:  Báo cáo NLCT toàn cầu của WEF năm 2010- 2010, tr.346
         Nhận định của các chuyên gia đều cho rằng: Một số yếu tố cấu thành nên  chỉ số NLCT có ảnh hưởng quan trọng đến hiệu quả và năng suất của nền kinh tế thì lại là những nhân tố bị WEF cho điểm thấp nhất, bao gồm: 1. Khả năng tiếp cận vốn; 2. Ổn định kinh tế vĩ mô (lạm phát & ổn định chính sách); 3. Lao động có đào tạo; 4. Cơ sở hạ tầng…Đây chính là những rào cản cản bước Việt Nam trên con đường tiến tới thịnh vượng. Các nhân tố yếu kém làm chỉ số NLCT thấp thì đồng thời cũng là các nhân tố làm cản trở tăng năng suất, tăng trưởng kinh tế.
         Mặc dù vậy, tại thời điểm năm 2010, Việt Nam được đánh giá là đã thoát khỏi tình trạng “đang phát triển thu nhập thấp” và chuyển sang một trạng thái chất lượng phát triển mới, cao hơn: ‘‘nước đang phát triển thu nhập trung bình’’, nhưng là ở mức thấp nhất của bậc này. Trạng thái chất lượng này tương đương với trình độ:
      - Hoàn thành bước chuyển từ xã hội nông nghiệp truyền thống, khép kín, sang xã hội công nghiệp, mở cửa hội nhập toàn diện vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
      - Trong nền kinh tế, các cân đối vĩ mô giữa sản xuất - tiêu dùng, tích lũy - tiêu dùng sẽ có thay đổi về chất để bước sang trình độ sản xuất mở rộng bền vững, tạo cơ sở chuyển từ mô hình “trọng cung” sang “trọng cầu”, thay đổi tư duy về CNH.
         3. Nền tảng NLCT của Việt Nam
         Các yếu tố của NLCT vĩ mô thường do chính phủ kiểm soát và tác động. Năm 2009, Việt nam đứng thứ 92 trong tổng số 134 nước xếp hạng về NLCT vĩ mô, tức là xếp dưới 70% số nước tham gia xếp hạng, chỉ cao hơn Philipines và Campuchia và thấp hơn rất nhiều nước trong khu vực ASEAN cũng như Trung Quốc. Nhóm chỉ số về hạ tầng xã hội thì đạt được ở mức trung bình của bảng xếp hạng (xếp thứ 72) và không thua kém nhiều so với một số nước có thu nhập bình quân cao hơn như Thái Lan, Ấn Độ…
         Bức tranh vĩ mô của nền kinh tế Việt Nam so với một số nước trong khu vực đang cho thấy sự bất ổn này là rất đáng lo ngại. Cán cân ngân sách tổng thể của Việt Nam thâm hụt cao nhất khu vực và là con số âm khá lớn so với GDP (- 5,8%). Trong khi đó con số này của Trung Quốc chỉ là -0,9%; Thái Lan: -1,1% ; Philipines: -2,1%... Tốc độ tăng cung tiền, tăng dư nợ tín dụng, tỷ lệ vốn FDI so với GDP cao nhất nhưng dự trữ ngoại hối lại thấp nhất… đang trở thành các nhân tố góp phần làm cho tốc độ lạm phát ở mức 2 con số và cao nhất trong bảng so sánh (bảng 3.6).  Nợ nước ngoài của Chính phủ cao, rủi ro vỡ nợ là có. Thị trường chứng khoán trong thời gian 2 năm 2009 - 2010 suy giảm mạnh. Thâm hụt ngân sách nặng nề, nhập siêu dẫn tới thâm hụt tài khoản vãng lai, dự trữ ngoại tệ mỏng nên lạm phát luôn là vấn đề mà Chính phủ phải quan tâm giải quyết hàng đầu. Trong vòng 5 năm (2006 - 2010), tính cộng dồn lạm phát đã tăng gần 60% trong khi tổng tăng trưởng GDP chỉ đạt 35,1%.Theo East Asian Bureau of Economic Research, bất ổn kinh tế vĩ mô của Việt Nam đã làm suy yếu tính cạnh tranh và  Nam không chỉ là một xáo động ngắn hạn mà thực sự là một vấn đề nghiêm trọng bắt nguồn từ sự thiếu hụt về nỗ lực mang tính chiến lược.
Bảng 3. Chỉ số kinh tế vĩ mô của Việt Nam so với một số nước (2004- 2009)
                                  Nước
 Chỉ số
Việt Nam
Trung Quốc
Indonexia
Malaixia
Philipin
Thái Lan
Chính sách tài khóa (% GDP)
- Cán cân ngân sách
- Tổng thu Ng. sách
- Tổng vốn đầu tư
- Nợ công

-5,8
26,8
36,2
46,9

-0,9
18,4
40
20,1

-0,9
17,9
22,6
39,1

-4,3
21,6
22,2
43,8

-2,1
15,5
17,7
64,7

-1,1
18,3
22,3
43,8
Chính sách tiền tệ (tăng % /năm)
- Tăng cung tiền (M2)
- Tăng dư nợ T. Dụng

32,2
37

19,4
15,7

14,5
12,4

15,1
8,1

12,3
7,1

7
4,4
Cán cân thanh toán
- Cán cân tài khoản vãng lai (% GDP)
- FDI thuần (% GDP)
- Dư nợ ngoại hối (tháng nhập khẩu)

-5,7
6,8
3,5

7,7
3
18,9

1,4
1,6
7,9

15,5
3,4
7,9

3,5
1,6
6,9

2,2
3,8
7,5
Tăng trưởng, lạm phát(%)
- Tốc độ tăng trưởng
- Tốc độ lạm phát

7,4
10,2

11
2,9

5,5
8,4

4,5
2,7

4,7
5,8

3,5
3,1
                                                Nguồn: Theo Báo cáo NLCT Việt Nam 2010, trang 71
4. Kết luận và một vài gợi  ý chính sách
          Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi để cố gắng vươn lên bắt kịp các nước có thu nhập trung bình và cao. Nhưng những nỗ lực hiện nay nhằm nâng cao NLCT là chưa đủ. Nền tảng NLCT của Việt Nam chỉ mới đang dừng ở mức khai thác các lợi thế so sánh sẵn có để hội nhập, mà chưa tạo dựng được lợi thế cạnh tranh một cách có hệ thống. NLCT vĩ mô chưa đáp ứng được yêu cầu cho bước phát triển cao hơn. Những nỗ lực riêng lẻ để nâng cao NLCT vi mô đã có nhưng chưa đủ, chưa có sự phối hợp đồng bộ với một thứ tự ưu tiên thích hợp để thực sự có hiệu quả. Nói chung, Việt Nam đang thiếu một cách tiếp cận chiến lược trong nâng tầm các nền tảng của NLCT để khai mở tận lực và kích hoạt các yếu tố nền tảng của NLCT từ đó đề ra một lộ trình thích hợp cho việc nâng cao NLCT của nền kinh tế Việt Nam.                
        Để nâng cao NLCT, hiện nay Việt Nam cần chuyển dịch từ mô hình tăng trưởng dựa trên lao động giá rẻ và đầu tư vốn lớn hiện nay sang dựa trên năng suất và sức cạnh tranh. Nhưng do thực lực còn hạn chế nên phải đăt trọng tâm vào việc tuân thủ 3 nguyên tắc chỉ đạo:
         Một là, thay vì chuyển dịch đồng loạt trên tất cả các lĩnh vực sang kinh tế định hướng thị trường là cách tiếp cận chính sách có chọn lọc nhằm nâng cao năng suất.
         Hai là, vai trò của Chính phủ chuyển từ kiểm soát một nền kinh tế đang chuyển đổi sang xây dựng lợi thế cạnh tranh cho nền kinh tế thị trường.
         Ba là, từ chỗ khu vực kinh tế Nhà nước và FDI giữ vai trò chi phối sang sự kết hợp do thị trường điều chỉnh giữa doanh nghiệp tư nhân, kinh tế Nhà nước và FDI.
      Dựa trên 3 nguyên tắc này, nhiệm vụ chính của chiến lược nâng cao NLCT phải là điều chỉnh chính sách để bình ổn vĩ mô nền kinh tế đồng bộ với gỡ các nút thắt vi mô, tạo một sự hài hòa tổng thể để nâng cao NLCT quốc gia và của nền kinh tế dựa trên 3 nguyên tắc chỉ đạo chính là (i) Từ sự chuyển dịch đồng loạt trên tất cả các lĩnh vực sang kinh tế định hướng thị trường thành cách tiếp cận chính sách có chọn lọc nhằm nâng cao năng suất của nền kinh tế, tạo nền tảng vững bền cho NLCT: (ii) Chuyển vai trò của Chính phủ từ chỗ kiểm soát nền kinh tế sang vai trò dẫn dắt để xây dựng lợi thế cạnh tranh cho một nền kinh tế thị trường; (iii) Chuyển dịch vai trò của các bộ phận trong nền kinh tế, đưa khu vực kinh tế Nhà nước kết hợp với kku vực có vốn FDI và kinh tế tư nhân thành thế trận tương xứng hài hòa do thị trường điều tiết trong môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!