PGS.TS. Phí Mạnh Hồng
Đại
học Quốc gia Hà Nội
Trong
kinh tế học hiện đại, có sự thừa nhận chung rằng, những thất bại thị trường
chính là cơ sở dẫn đến những hành vi can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị
trường. Sự can thiệp này có thể bộc lộ dưới nhiều hình thức khác nhau, từ việc
tạo lập một môi trường pháp lý chung – như là sự cung cấp một loại hàng hóa
công, nhằm bảo đảm cho các giao dịch thị trường có thể tiến hành thuận lợi,
hiệu quả cho đến các chương trình phân phối lại nhằm mục tiêu công bằng. Tuy
vậy, với sự xuất hiện của kinh tế tri thức, việc sản xuất và sáng tạo của cải
của loài người được đặt trên những nền tảng mới. Nền kinh tế đang dần được vận
hành theo những nguyên lý mới. Điều này không thể không làm biến đổi chính các
nguyên lý thị trường lẫn những thất bại của nó. Trong khi kinh tế thị trường
chưa biến mất, Nhà nước vẫn tiếp tục tương tác với thị trường như một thể chế
bổ sung, tối cần thiết, thì những thay đổi trong các thất bại thị trường sẽ dẫn
đến những sự thay đổi trong vai trò can thiệp của Nhà nước.
Bài viết này chưa
bàn về nội dung mới trong vai trò của Nhà nước mà chỉ luận giải sự tác động của
các điều kiện kinh tế mới, gắn liền với kinh tế tri thức, đến chính các thất
bại thị trường như là cơ sở để phải tư duy lại về vai trò của Nhà nước.
1-Sửa
chữa thất bại thị trường – vai trò kinh tế của Nhà nước
Trong một nền kinh tế thị trường, sự
tồn tại khách quan của các thất bại thị trường là cơ sở biện minh cho các hoạt
động của Nhà nước. Sở dĩ xã hội cần đến Nhà nước vì thị trường tự nó không phân
bổ nguồn lực một cách có hiệu quả để sản xuất ra các hàng hóa phục vụ tốt nhất
cho như cầu của các thành viên của mình. Xã hội cũng cần có Nhà nước để khắc
phục những bất ổn kinh tế vĩ mô và hạn chế những rủi ro mà các cá nhân có thể
phải đối mặt. Nhà nước cũng có thể điều chỉnh các tiến trình phân phối cũng như
làm cho các hoạt động sản xuất tiêu dùng trở thành chấp nhận được về phương
diện giá trị xã hội. Tóm lại, vai trò của Nhà nước là sữa chữa thất bại thị
trường, làm cho nền kinh tế trở nên hiệu quả hơn, ổn định hơn, công bằng hơn và
phù hợp hơn so với các chuẩn mực giá trị được thừa nhận chung.
Sự tồn tại các thất bại thị trường nói
lên sự cần thiết phải sữa chữa các thất bại đó, song vấn đề là Nhà nước có khả
năng làm được điều đó không?
Có hai loại quan điểm cực đoan về vấn
đề này. Quan điểm của các nhà kinh tế cổ điển (mà hậu duệ của nó chính là các
trường phái tân cổ điển, cổ điển mới) thường xem nhẹ các thất bại thị trường,
đề cao khả năng tự điều chỉnh của thị trường, do đó cho rằng Nhà nước chỉ nên
can thiệp vào các thị trường một cách tối thiểu. Thật ra thì xét về dài hạn, sự
bất ổn vĩ mô như trạng thái suy thoái kinh tế, và thất nghiệp cao chẳng hạn có
thể dần dần được thị trường tự khắc phục theo cơ chế tự điều chỉnh. Nhưng tự
điều chỉnh có nghĩa là thị trường có thể vượt qua suy thoái để trở về trạng
thái bình thường và sau đó có thể chuyển sang trạng thái đối nghịch: sự phát
triển “quá nóng”. Vậy là những bất ổn vẫn còn đó mặc dù xét về dài hạn, các
trạng thái cực đoan có thể coi là bù trừ cho nhau. Vả lại, nói như Keynes, “về
dài hạn tất cả chúng ta đều chết”. Những bất ổn ngắn hạn nhưng thường xuyên xảy
ra cần được giải quyết chứ không thể phó thác hoàn toàn cho thị trường. Ngoài
ra, có những thất bại thị trường như vấn đề ngoại ứng, thông tin…thị trường
không thể tự xử lý được. Quan điểm đề cao thị trường thường chú ý vấn đề hiệu
quả mà ít xem trọng các khía cạnh liên quan đến công bằng.
Ở phía bên kia là quan điểm đề cao
thái quá vai trò của Nhà nước. Được khích lệ từ Keynes, những người theo quan
điểm này cho rằng Nhà nước có thể và cần phải đóng một vai trò tích cực trong
các hoạt động kinh tế. Nhà nước cần phải sử dụng các chính sách tài khóa và
tiền tệ tích cực để ổn định hóa nền kinh tế và kích thích tăng trưởng dài hạn.
Nhà nước cần thiết lập một hệ thống các quy tắc điều tiết rộng rãi cũng như các
công cụ như thuế, trợ cấp để điều chỉnh các hành vi của những người sản xuất và
tiêu dùng ở những chỗ có thất bại thị trường. Nhà nước cũng cần có một chính
sách an sinh xã hội và phân phối lại đủ mạnh để hỗ trợ người nghèo, những người
yếu thế, dễ gặp rủi ro hướng đến một mục tiêu công bằng nào đó. Ngoài cách can
thiệp gián tiếp thông qua hệ thống luật lệ, các quy tắc điều tiết, thuế và trợ
cấp, quan điểm đề cao vai trò của Nhà nước cũng thường ủng hộ sự mở rộng khu vực
công. Trào lưu này bộc lộ rõ ở nhiều nước Tây Âu thời kỳ sau chiến tranh thế
giới thứ hai. Cách tiếp cận này đề cao thái quá năng lực sữa chữa thất bại thị
trường của Nhà nước. Nó không thấy rằng thị trường có thất bại song cũng có
thất bại của Nhà nước. Khi Nhà nước không có đủ thông tin cần thiết (và điều
này cũng thường xảy ra), khi nó không kiểm soát được các phản ứng nhanh nhạy,
tự nhiên của khu vực tư nhân trước những chính sách can thiệp của Nhà nước, khi
các quyết định ở khu vực công luôn bị chi phối bởi các quá trình chính trị phức
tạp, bị tác động bởi những vận động khác nhau của các nhóm lợi ích trong xã
hội, khi bộ máy nhà nước về bản chất, dù ít dù nhiều cũng mang tính chất quan
liêu thì không phải bao giờ sự can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động của nền
kinh tế cũng đưa đến các kết quả như kỳ vọng. Sự can thiệp sai lầm, không đúng
lúc, đúng chỗ, đúng liều lượng, đúng cách thức có thể dẫn đến tình huống: chẳng
những thất bại thị trường không được sữa chữa mà nó còn bộc lộ trầm trọng hơn
do những can thiệp méo mó của Nhà nước gây ra. Hoặc một thất bại thị trường cụ
thể nào đó có thể được làm dịu đi song cái giá chung mà nền kinh tế phải trả có
khi là quá đắt. Rõ ràng hiệu quả của các chính sách can thiệp từ phía Nhà nước
phụ thuộc rất nhiều về năng lực của chính Nhà nước cũng như trình độ phát triển
của các quan hệ thị trường.
Từ những năm 80 của thế kỷ trước, một
quan điểm trung dung về tương quan Nhà nước và thị trường được nhiều người chia
sẻ. Theo quan điểm này thị trường và Nhà nước đều là những cơ chế phân bổ nguồn
lực có những điểm mạnh và yếu riêng. Do đó chúng cần được bổ sung cho nhau,
chung sống với nhau hơn là thay thế nhau, bài trừ nhau. Trong khi thừa nhận vai
trò trung tâm của thị trường trong mọi nền kinh tế hiện đại thành công, những
người theo đuổi quan điểm này vẫn cho rằng Nhà nước vẫn phải đóng vai trò tích
cực song thận trọng trong tiến trình phát triển của nền kinh tế. Nhà nước không
nên làm thay thị trường ở những chỗ mà nó có thể vận hành tốt. Song muốn thị
trường vận hành tốt thì Nhà nước phải tạo ra những môi trường kinh tế, luật
pháp, cơ sở hạ tầng ..khuyến khích tính cạnh tranh lành mạnh của thị trường.
Nhà nước phải quan tâm đến những lĩnh vực như giáo dục, toàn dụng việc làm,
công bằng xã hội, môi trường và những giá trị phi vật thể khác. Nhà nước có thể
can thiệp vào thị trường khi có thất bại thị trường nhưng sự can thiệp đó cần
phù hợp với những giới hạn về năng lực của Nhà nước.
Chúng tôi chia sẻ với cách tiếp cận
trung dung này. Coi thị trường và nhà nước đều có những điểm yếu, đều chứa đựng
những ‘thất bại”, cũng như đều có những điểm mạnh mà “đối tác” của nó không có
là cách nhìn đúng với bản chất sự việc, được kiểm nghiệm bởi thực tiễn. Cơ chế
thị trường với tư cách là một cơ chế phân bổ nguồn lực luôn dựa trên những giao
dịch tự nguyện, cùng có lợi. Nó khuyến khích người ta phục vụ lợi ích xã hội và
do đó đạt đến hiệu quả thông qua việc theo đuổi một cách tự nhiên các lợi ích
tư nhân thiết thân. Trao đổi thị trường cùng có lợi tạo ra một trò chơi
“win-win” (cùng thắng), do đó là phương thức để người ta sắp xếp lại các nguồn
lực sản xuất và tiêu dùng theo hướng cải thiện hiệu quả. Trao đổi thị trường
luôn khuyến khích người ta phát huy các lợi thế tương đối của mỗi cá nhân cũng
như của các quốc gia trên cơ sở sự chuyên môn hóa sản xuất nào đó. Tuy nhiên
cũng cần nhấn mạnh rằng ưu thế của cơ chế thị trường là nằm trong phương thức
cạnh tranh của nó. Cạnh tranh khuyến khích đổi mới (công nghệ, phương thức quản
lý, cách thức bán hàng…), tạo ra môi trường cho sự phát triển đích thực của
khoa học và công nghệ, mở rộng cơ hội lựa chọn và quyền lực của người tiêu
dùng. Hệ quả là các nguồn lực được chuyển vào tay những người có khả năng sử
dụng chúng một cách hiệu quả. Theo nghĩa này, một trong những kết quả của sự
cạnh tranh là sự phá sản của một số doanh nghiệp nào đó, cũng là một phương
thức để thị trường đào thải những người sản xuất yếu kém, chuyển nguồn lực mà
trước đây những người này nắm giữ sang cho những người có hiệu năng xã hội cao
hơn. Vai trò to lớn của cạnh tranh cho thấy gốc rễ của phần lớn các thất bại
thị trường và tầm quan trọng của việc thiết kế và thực thi các quy tắc cạnh
tranh lành mạnh. Quy tắc và môi trường cạnh tranh luôn gắn với vai trò của Nhà
nước.
Sức mạnh của Nhà nước nằm trong quyền
lực cưỡng chế đặc biệt (chứ không phải sự tự nguyện như thị trường) của nó. Đó
là các quyền cưỡng chế như: đánh thuế, đòi hỏi tham gia, cấm đoán, trừng phạt.
Sự cưỡng chế này có thể tạo ra được những phân bổ nguồn lực vào những ngành,
những lĩnh vực mà sự tự nguyện thị trường không làm được. Và đó chính là khả
năng để Nhà nước có thể sữa chữa được các thất bại thị trường. Chẳng hạn hiện
tượng “kẻ ăn không” có thể khiến cho không ai chịu tự nguyện trả tiền cho việc
mua sắm các hàng hóa công cộng như xây dựng hệ thống luật pháp, quốc phòng, đê
điều, làm trong lành bầu không khí chung… cho dù đây là những hàng hóa vô cùng
cần thiết đối với xã hội. Khi không ai chịu trả tiền mua sắm thì khu vực tư
nhân không thể cung cấp được những hàng hóa này vì cách mà những nhà sản xuất
tư nhân bù đắp chi phí và thu lợi nhuận là nhờ tiền bán hàng. Nhà nước có thể
sữa chữa thất bại thị trường này bằng cách đánh thuế và dùng tiền thuế để tài
trợ cho việc sản xuất những hàng hóa này. Nhà nước cũng có thể dùng thuế, hay
sự cấm đoán, trừng phạt để tác động và hiệu chỉnh các hành vi sản xuất, tiêu
dùng gây ra ngoại ứng tiêu cực (ví dụ gây ô nhiễm) và đưa sản lượng thị trường
trở về sản lượng tối ưu xã hội. Chính sách bảo hiểm bắt buộc (cũng dựa vào
quyền lực cưỡng bức của Nhà nước) có thể làm thị trường hoạt động hiệu quả hơn
nhờ khắc phục được sự suy thoái thị trường do vấn đề thông tin bất cân xứng gây
ra. Việc đánh thuế tạo ra cho Nhà nước các nguồn lực công để chi tiêu và trợ
cấp, và đây cũng là những công cụ mạnh để Nhà nước can thiệp vào các hành vi
thị trường. Với các công cụ này Nhà nước có thể thực thi các chính sách phân
phối lại để đảm bảo mục tiêu công bằng mà thị trường thường bỏ qua.
Như vậy, vì dựa trên một sức mạnh khác
với sức mạnh thị trường, xét về tiềm năng Nhà nước có thể bổ sung cho thị
trường và sữa chữa các thất bại thị trường. Có một khoảng rất rộng để Nhà nước
thực thi vai trò của mình và làm cho nền kinh tế thị trường hoạt động tốt hơn:
xây dựng một môi trường pháp lý- kinh tế lành mạnh thuận lợi cho các hoạt động
kinh doanh, phát triển cơ sở hạ tầng vật chất và thể chế, chống độc quyền và
thúc đẩy cạnh tranh, bảo vệ môi trường và hiệu chỉnh các ngoại ứng tiêu cực,
cung cấp các hàng hóa công mà thị trường không cung cấp hoặc cung cấp dưới mức
hiệu quả, đầu tư phát triển giáo dục và y tế (một hàng hóa gây ngoại ứng tích
cực song cũng liên quan chặt chẽ đến khía cạnh công bằng – công bằng cơ hội),
khoa học – công nghệ; hỗ trợ thị trường về việc cung cấp thông tin và đề ra quy
chế về cung cấp thông tin, ổn định hóa kinh tế vĩ mô và thực hiện các chiến
lược khuyến khích tăng trưởng bền vững, thực hiện các chính sách phân phối lại
vì những quan tâm về công bằng…Tuy nhiên, tiềm năng sữa chữa thất bại thị
trường chỉ trở thành hiệu quả thực tiễn khi hành vi can thiệp của Nhà nước phù
hợp với điều kiện và năng lực của thể chế Nhà nước. Năng lực này suy đến cùng
lại gắn với khả năng khắc phục những nguồn gốc dẫn đến thất bại của Nhà nước.
2-Kinh
tế tri thức và những thất bại thị trường
Kinh tế thị trường truyền thống, theo
chúng tôi, tương thích với thời đại kinh tế công nghiệp, đại cơ khí, sản xuất
hàng loạt. Sự định hình và phát triển kinh tế tri thức với tư cách là một thời
đại kinh tế mới, một phương thức sáng tạo của cải mới theo những nguyên lý khác
trước sẽ làm biến đổi kinh tế thị trường cũng như những thất bại của nó. Quá
trình này đang manh nha, vì thế sự nhận diện về nó là không dễ dàng.
Gốc rễ của vấn đề nằm ở đặc điểm của
tri thức mà giờ đây đang dần chiếm giữ vị trí số một trong các nguồn lực sáng
tạo ra của cải. Sự bùng nổ của tri thức, khả năng lan truyền nhanh với chi phí
thấp, tính chất hàng hóa công của tri thức, tính chất không cạn kiệt trong quá
trình tiêu dùng tri thức và các đặc điểm của nền kinh tế tri thức …sẽ làm cho
kinh tế thị trường hiện đại có những diện mạo khác trước.
Kinh tế tri thức ra đời gắn liền với
sự phát triển vượt bậc có tính chất bùng nổ của cách mạng về khoa học – công
nghệ và sự tiến triển tương ứng của chính thể chế thị trường trên phạm vi toàn
thế giới. Những điều kiện mới này có thể làm thay đổi chính bản chất của các
thất bại thị trường.
Trước hết sự xuất hiện của kinh tế tri
thức có thể phá vỡ và làm mất hiệu lực của một số giả định mà kinh tế học thị
trường thường dùng để phân tích về hành vi của người sản xuất và tiêu dùng.
Những người này thường được xem là những người luôn tìm cách tối ưu hóa các quá
trình sản xuất và tiêu dùng của mình trên cơ sở những thông tin hiện có. Đây
được coi là một giả định hợp lý. Tính hiệu quả cũng thường đòi hỏi tính tối ưu.
Tuy nhiên, với đặc điểm tốc độ biến đổi cực kỳ cao trong nền kinh tế tri thức,
việc tối ưu hóa các quá trình sản xuất cũ, với các yếu tố sản xuất cũ, phương
pháp cũ có thể trở nên không hiệu quả bằng tìm ra những yếu tố sản xuất mơi,
cách thức sản xuất mới. Tìm ra cái mới và áp dụng cái mới quan trọng hơn hoàn
thiện cái cũ. Quá trình học hỏi trong sản xuất
giờ đây bị rút ngắn lại. Sáng tạo quan trọng hơn tối ưu. Mặt khác, Định
lý hiệu quả giả định các công nghệ sản xuất thích ứng với nguyên tắc hiệu suất
không đổi hay giảm dần theo quy mô. Nhưng trong điều kiện kinh tế tri thức,
người ta có thể nói đến quy luật hiệu suất tăng dần theo quy mô (đặc biệt rõ
trong những ngành công nghệ cao). Điều này khiến đường giới hạn khả năng sản
xuất không còn hình dạng lồi hay đường thẳng như kinh tế học truyền thống
thường hình dung. Vậy phân tích về trạng thái cân bằng của một nền kinh tế cạnh
tranh sẽ là trạng thái hiệu quả có còn đứng vững. Rõ ràng, điểm neo chuẩn “lý
tưởng” để phân tích về các thất bại thị trường có thể phải xem xét lại.
Thứ
hai, xu hướng kinh tế
tri thức cũng làm biến đổi tương quan giữa cạnh tranh và độc quyền. Công nghệ
mới có thể làm cho một số ngành trước đây vốn dĩ là độc quyền tự nhiên do đòi
hỏi của tính kinh tế nhờ quy mô lớn giờ đây lại là ngành phi độc quyền. Ngành
viễn thông là một ví dụ nổi bật. Với kỹ thuật mới, quy mô tối thiểu có hiệu quả
giảm đi rõ rệt mở ra cơ hội cho nhiều hãng có thể cùng hoạt động hiệu quả trên
cùng một thị trường. Nhờ vậy hiện nay thị trường viễn thông là một thị trường mang tính cạnh tranh mạnh mẽ hơn nhiều so với
tình trạng độc quyền hóa của thị trường này trong thời kỳ trước. Mặt khác, nhờ
internet, khả năng tiếp cận để kho tàng tri thức nhân loại trở nên dễ dàng hơn
và với chi phí thấp hơn (dĩ nhiên trong một phạm vi nào đó, một số tri thức mới
có thể khó tiếp cận hơn nhờ hàng rào bản quyền, song về bản chất công nghệ thì
khả năng tiếp cận vẫn dễ dàng hơn nhiều so với trước đây). Nếu đây là nguồn lực
hay tài sản đầu vào số một của nền kinh tế mới thì có nghĩa là những rào cản
kinh tế đối với việc gia nhập ngành hay rút lui khỏi ngành trở nên thấp hơn
trước. Điều này sẽ gia tăng khả năng cạnh tranh cho các thị trường.
Nhìn ở góc độ khác, kinh tế tri thức
về bản chất không phải nền kinh tế của các quá trình sản xuất hàng loạt. Người
ta có thể sản xuất với quy mô nhỏ, với các chủng loại hàng hóa thay đổi nhanh,
đáp ứng các thị trường thường được phân khúc ngày càng nhỏ hơn, với nhu cầu
càng ngày càng được cá biệt hóa của người tiêu dùng. Quy mô nhỏ, linh hoạt, dễ
thay đổi sẽ là đặc điểm quan trọng của sản xuất hiện đại. Xét ở khía cạnh này,
quyền lực thị trường của các doanh nghiệp lớn dường như suy giảm một cách tương
đối.
Không gian kinh tế tri thức là không
gian toàn cầu. Các doanh nghiệp ngày càng chịu sức ép cạnh tranh không chỉ từ
những đối thủ trong nước mà còn là các đối thủ cạnh tranh từ bên ngoài. Xét
trong không gian mới đó, một doanh nghiệp duy nhất độc quyền trong nước chưa
chắc đã có vị thế hoàn toàn như trước đây nếu nó luôn đối diện với nguy cơ cạnh
tranh từ hàng nhập khẩu bên ngoài
Thứ
ba, công nghệ truyền
hình cũ làm cho dịch vụ truyền hình có tính chất của một hàng hoá công cộng
thuần túy vì nó có cả tính phi cạnh tranh lẫn phi loại trừ về mặt tiêu dùng.
Với truyền hình cáp, truyền hình kỹ thuật số, dịch vụ truyền hình trở thành có
tính loại trừ về mặt tiêu dùng. Người xem truyền hình có thể phải trả tiền mới
được xem các chương trình truyền hình hấp dẫn. Nhờ vậy, thị trường dịch vụ
truyền hình có điều kiện phát triển hơn, theo một cách thức mới. Đối với một số
cá nhân giàu có, việc xây dựng những công viên riêng trong nhà của mình trở nên
có thể thực hiện được. Trong trường hợp này, công viên có thể trở thành một
hàng hoá tư nhân. Trong các cuốn sách giáo khoa về kinh tế học, ngọn hải đăng
thường được xem là một hàng hóa công thuần túy. Nếu chúng ta tưởng tưởng rằng
khi người ta tìm ra một công nghệ khiến cho người sở hữu ngọn hải đăng chỉ cho
phép những con tàu nào chịu trả tiền mới nhìn thấy ánh sáng của nó (một sự
tưởng tượng dựa trên cách khóa mã các chương trình truyền hình hiện nay) thì
tính chất công của ngọn hải đăng đã thay đổi.
Xét về phạm vi, trước đây chúng ta
thường nói an ninh quốc phòng là hàng hóa công cộng trong phạm vi quốc gia.
Nhưng với công nghệ quốc phòng hiện nay, khả năng tấn công hay phòng thủ từ xa,
vượt ra khỏi phạm vi quốc gia là có thể. Những khái niệm mới như ‘khủng bố quốc
tế’ “an ninh tập thể” là cách diễn đạt dường như phản ánh tính chất công trên
phạm vi rộng hơn của hàng hóa quốc phòng.
Thứ
tư, bản chất của
ngoại ứng với tư cách là một thất bại thị trường là sự thiếu vắng thị trường
cho các tác động đem lại lợi ích hay gây thiệt hại cho người khác. Nếu người
gây ô nhiễm luôn luôn phải trả tiền cho người bị tác động của ô nhiễm thì thất
bại thị trường biến mất. Đều này chỉ xảy ra khi nguồn gốc và quy mô của tác
động ngoại ứng có thể xác định được đối với từng người sản xuất và tiêu dùng.
Khó khăn mang bản chất thông tin này và chi phí giao dịch cao cho việc tổ chức
các thương lượng, mặc cả giữa các bên có liên quan khiến cho các giải pháp xử
lý tư nhân đối với vấn đề ngoại ứng là khá hạn chế. Tuy nhiên trong một chừng
mực nhất định sự thay đổi công nghệ một mặt có thể giảm thiểu một số ngoại ứng
tiêu cực, ví dụ như việc sản xuất gây ô nhiễm. Các công nghệ sạch, thân thiện
với môi trường, ít tiêu tốn tài nguyên vật chất chính là xu hướng phát triển
của nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức. Mặt khác, công nghệ mới cũng cho phép
người ta có thể giám sát, đo lường dễ dàng hơn các tác động của ngoại ứng. Điều
này cho thấy một số ngoại ứng có thể xử lý được theo hướng áp dụng các giải
pháp tư nhân, đồng thời Nhà nước cũng có nhiều công cụ hơn để xử lý vấn đề
ngoại ứng. Việc Nhà nước thiết lập thị trường mua bán giấy phép chất thải, nhờ
đó khiến cho việc hiệu chỉnh ngoại ứng trở nên hiệu quả hơn chính là một hướng
như vậy.
Thứ
năm, thông tin bất
cân xứng vẫn là một vấn đề gây trở ngại cho các giao dịch hiệu quả của thị
trường. Một mặt việc lưu giữ và tìm kiếm thông tin ngày càng trở nên dễ dàng
hơn bao giờ hết khiến cho người ta có thể khắc phục được một phần sự thiếu hụt
và chênh lệch về thông tin giữa các đối tác, về chất lượng hàng hóa và dịch vụ.
Với sự phát triển của thương mại điện tử, những hình thức mua bán trên mạng
kiểu như trên trang đấu giá trực tuyến e-bay những người mua và bán từ những
địa điểm khác nhau dễ dàng gặp nhau trên mạng. Những thông tin chi tiết về hàng
hóa được mô tả sinh động, chi tiết. Các giá cả khác nhau dễ dàng được so sánh
đối chiếu. E-bay ngày càng hoạt động giống như một thị trường cạnh tranh hoàn
hảo ở đó người ta có thể mua được những món hàng với giá rẻ nhất cũng như bán
được hàng với giá cao nhất chính nhờ môi trường thông tin dân chủ và minh bạch.
Việc lưu trữ các thông tin về khách hàng và khả năng chia sẻ thông tin này giữa
các ngân hàng khiến cho việc phân loại, đánh giá khách hàng trở nên đáng tin
cậy hơn, nhờ thế một phần của vấn đề thông tin trên thị trường vốn có thể được
xử lý. Khi việc sản xuất và cung cấp thông tin trở nên rẻ hơn nhờ những công
nghệ mới, người ta sẽ có nhiều động cơ để cung cấp thông tin hơn cho các đối
tác. Chi phí đánh giá, thẩm định thông tin rẻ hơn khiến cho thông tin trở nên
đáng tin cậy hơn. Tuy nhiên, tốc độ biến đổi nhanh đòi hỏi các hợp đồng và giao
dịch phải được tiến hành nhanh hơn. Những tình huống mới chưa hề có cũng có khả
năng xuất hiện ngày càng nhiều hơn. Xét ở góc độ này sự bất cân xứng về thông
tin không hoàn toàn mất đi mà ở những trường hợp nhất định còn trở nên nghiêm
trọng hơn.
Thứ
sáu, rủi ro và bất ổn
kinh tế ngày càng dễ lây lan trên phạm vi toàn cầu khi mà sự phụ thuộc lẫn nhau
của các nền kinh tế trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết. Khi các nguồn lực dễ dàng
di chuyển từ nước này này sang nước khác, khi các nguồn vốn có thể nhanh chóng
từ bên ngoài đổ vào một nền kinh tế, tạo ra sự bùng phát nhất thời của các hoạt
động kinh tế thì nó cũng dễ dàng tháo chạy ra khỏi chính nền kinh tế ấy và làm
cho nó nhanh chóng sụp đổ. Nhiều công cụ tài chính hiện đại được phát minh
khiến cho các giao dịch trở nên dễ dàng hơn, thuận tiện hơn song cũng càng khó
kiểm soát hơn. Tính bất định và rủi ro trên thị trường tài chính toàn cầu ngày
càng cao vì các giao dịch ngày càng vượt khỏi tầm kiểm soát của các ngân hàng
trung ương hay Nhà nước quốc gia. Kinh tế tri thức về bản chất là nền kinh tế
toàn cầu. Tính chất toàn cầu của các hoạt động thương mại và đầu tư làm cho một
biến động trên thị trường thế giới có thể tác động mạnh mẽ đến các hoạt động
kinh tế ở mỗi quốc gia. Khủng hoảng kinh tế, tài chính dễ nổ ra hơn vì nó không
chỉ bắt nguồn từ những yếu kém nội tại của nền kinh tế quốc gia. Khi khủng hoảng
tài chính nổ ra ở Thái lan vào năm 1997, nó đã nhanh chóng lan rộng ra một số
nước trong khu vực và ngoài khu vực. Cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra ở Mỹ hiện
nay đã nhanh chóng lan rộng và phát huy tác dụng dây chuyền sang các nước châu
Âu. Một loạt ngân hàng ở Mỹ và một số nước Tây Âu tuyên bố phá sản. Nhiều thị
trường sụp đổ. Chỉ số chứng khoán ở hầu khắp các thị trường tụt dốc phản ánh sự
suy giảm niềm tin của dân chúng vào tình hình kinh tế. Suy thoái kinh tế lan
nhanh trên khắp thế giới. Nền kinh tế ngày càng trở thành một nền kinh tế toàn
cầu trong khi đó các thể chế chính trị toàn cầu có khả năng bổ sung và kiểm
soát thị trường chưa được phát triển một cách tương xứng. Điều này làm cho nền
kinh tế dễ bị tổn thương hơn, đặc biệt là đối với các nước nghèo.
Thứ
bảy, kinh tế tri thức
cũng tác động mạnh mẽ đến mô hình phân phối thu nhập. Trong kinh tế thị trường, phân phối thu nhập phụ thuộc vào
sự đóng góp của mỗi người trong quá trình tạo ra của cải xã hội. Đây là bước
tiến của công bằng xã hội dựa trên sự thừa nhận các cá nhân. Nhưng sự đóng góp
ấy lại bị quy định bởi sự phân phối các đầu vào hay các nguồn lực. Vì thế,
trạng thái sở hữu các nguồn lực đầu vào (số lượng, chất lượng, mức độ khan hiếm
tương đối của chúng trong tương quan giữa cung và cầu) quyết định trạng thái
phân phối thu nhập hay của cải đầu ra.
Trong nền kinh tế công nghiệp, khi tư
bản là yếu tố đầu vào quan trọng nhất của quá trình sản xuất, (quyết định sự
kết nối các đầu vào khác) thì sự phân phối nghiêng về tư bản. Những người có tư
bản là những người làm chủ quá trình sản xuất, đồng thời là những người được
hưởng lợi nhiều nhất trong quá trình phân phối.
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức
mới là yếu tố sản xuất hàng đầu, chi phối các nguồn lực khác, kết nối các nguồn
lực khác. Phân phối thu nhập sẽ tùy
thuộc vào sự phân phối tri thức. Sự chênh lệch về vốn con người sẽ quyết định
sự chênh lệch thu nhập. Đó là sự chênh lệch quan trọng nhất, đáng kể nhất khiến
cho sự chênh lệch về các tài sản vật chất trở nên thứ yếu. (hãy xem sự giàu có
của Bill Gate trong giới kinh doanh hay sự giàu có của những người làm thuê như
Beckham, C. Ronaldo…).
Tài sản tri thức mà mỗi người tích lũy
được phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố hoàn toàn cá nhân. Song ở
đây, nhà nước có thể đóng giữ một vai trò quan trọng. Nhà nước có thể và cần
phải tạo ra sự bình đẳng về cơ hội tiếp cận các dịch vụ giáo dục, y tế như là
điều kiện thiết yếu để tạo ra sự bình đẳng về sự tích lũy tri thức hay vốn con
người. Phân phối lại các tài sản vật chất để tạo ra sự bình đẳng về thu nhập
tương lai luôn luôn khó, nhất là phân phối lại tư bản (đánh thuế lũy tiến vào
tài sản và thu nhập là đi theo hướng này song quá ngưỡng nào đó, nó sẽ triệt
tiêu các động lực kinh tế). Song để bảo đảm cơ hội giáo dục cho mọi người lại được
dễ dàng chấp nhận hơn về mặt xã hội và thực tế dễ triển khai hơn. Điều này cho
thấy về lý thuyết, kinh tế tri thức tạo ra cơ hội để người ta đi đến một trạng
thái phân phối công bằng hơn các xã hội trước đó. Tuy nhiên, ở đây vẫn chứa
đựng những “nguy cơ” tiềm tàng. Một mặt, tốc độ nhanh của nền kinh tế khiến cho
hai người có vốn tri thức gần tương đương nhau vẫn có thể có thu nhập rất khác
nhau. Trong cuộc đua tranh, người cán đích đầu tiên là người giành được phần
lớn các phần thưởng. Song khi cuộc đua lại tiếp tục, người thua cuộc lúc trước
vẫn luôn luôn có cơ hội lật đổ kẻ chiến thắng. Mặt khác, sự phân phối đồng đều
các tri thức hiện dễ thực hiện hơn. Trong khi các tri thức ẩn (trong đó có các
yếu tố như nghị lực, ý chí, thái độ…) dường như tùy thuộc nhiều hơn vào các cá
nhân thì hóa ra, trong xã hội mới, những yếu tố này mới là những yếu tố quyết
định sự giàu nghèo tương đối giữa các cá nhân.
Khi xuất hiện một thị trường hợp nhất
toàn cầu, khi các rào cản bị dỡ bỏ, các chi phí đi lại giảm xuống, người thắng
cuộc sẽ được hưởng tất cả. Trước kia, một người có thể được phép thành công ở
một địa phương, nay thì kẻ cạnh tranh với anh ta từ một nơi nào đó ở bên ngoài
biên giới vẫn có thể lấy mất chỗ làm việc của anh ta, khách hàng / hay thị
trường của anh ta. Thị trường tất nhiên trong nhiều trường hợp sẽ không có một
người duy nhất thắng, song kẻ đứng đầu bao giờ cũng chiếm phần cực kỳ lớn. Kẻ
chiến thắng sẽ là thần tượng, là hình ảnh quảng cáo có sức ảnh hưởng đến hàng
triệu người trên toàn cầu. Năm 1997, thu nhập của Michael Jordan khoảng 80 triệu USD, còn của
một cầu thủ giỏi khác (tất nhiên là kém MJ) cùng trong đội bóng của MJ, tên là
Joe Kleine chỉ có thu nhập là 0,27 triệu USD. Lý do: Michael Jordan có một thị
trường toàn cầu cho các dịch vụ và bút tích của mình, còn thị trường của Kleine
chỉ bao gồm trong sân vận động United Center của Chicago[1].
Mẫu hình phân phối người thắng được tất cả cho thấy mức độ nghiêm trọng của sự
phân hóa thu nhập trong điều kiện kinh tế tri thức- toàn cầu hóa, cho dù xu hướng
ngược lại không phải không có khả năng phát huy tác dụng.
Tóm lại sự xuất hiện và phát triển của
kinh tế tri thức khiến cho các thất bại thị trường có nhiều biến đổi. Khi kinh
tế thị trường vẫn còn tồn tại, các dạng thất bại thị trường dường như vẫn như
cũ song trên từng thị trường cụ thể có sự chuyển hóa sâu sắc về phạm vi, mức
độ, nội dung và thực chất của những thất bại thị trường. Thị trường tự nó cũng
phát triển ra những công cụ để vô hiệu hóa một phần các thất bại thị trường cũ,
nhưng trong trường hợp khác, thất bại thị trường có thể trở nên sâu sắc hơn. Sự
phát triển kinh tế tri thức cũng tạo ra những yêu cầu mới, công cụ mới để Nhà
nước sữa chữa các thất bại này. Đây là lý do để phải tư duy lại về vai trò mới
của Nhà nước trong bối cảnh nền kinh tế tri thức.
Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “BỐI CẢNH
THẾ GIỚI HIỆN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
CHÀO BẠN! NẾU CÓ THẮC MẮC HOẶC ĐÓNG GÓP, XIN ĐỂ LẠI Ý KIẾN BẰNG TIẾNG VIỆT CÓ DẤU. CHÚNG TÔI RẤT VUI VÌ BẠN ĐÃ GHÉ THĂM!